Đề kiếm

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Đề kiếm - 題劍
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

藍山自昔臥神龍
世事懸知在掌中
大任有歸天啓聖
昌期一遇虎生風
國讎洗盡千年恥
金匱終藏萬世功
整頓乾坤從此了
世間那更數雄英

Lam-sơn tự tích ngọa thần long[1],
Thế sự huyền tri tại chưởng trung.
Đại nhiệm hữu qui thiên khải thánh[2] ;
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong[3].
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ ;
Kim quỹ[4] chung tàng vạn thế công.
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu ;
Thế gian na cánh sổ anh hùng[5].

Rồng thần từ xưa nằm ở Lam-sơn,
Việc đời đã biết trước như nằm trong tay.
Việc lớn đã chọn người, trời báo cho thánh biết;
Thời thịnh mà gặp được, thì hùm sinh gió tức bay được.
Thù nước đã rửa sạch sỉ nhục hàng nghìn năm ;
Trong hộp vàng cuối cùng xếp công muôn thuở.
Chỉnh đốn càn khôn từ đó là xong ;
Thế gian lại có đếm xỉa gì bực anh hùng nữa.

   




Chú thích

  1. Ngọa thần long: rồng còn nằm. Chỉ Lê Lợi khi còn ẩn ở Lam Sơn
  2. Thiên khải thánh: trời bảo cho thánh biết, bằng cách cho Lê Lợi bắt được kiếm thần
  3. Hổ sinh phong: cọp sinh gió
  4. Kim quỹ: hòm vàng, Hán Cao Tổ ghi công các công thần vào hòm vàng rồi cất vào nhà đá
  5. Câu này than người đời không đếm xỉa gì đến người anh hùng nữa khi giặc đã yên, cái công lớn đem chôn cất vào kim quỹ, thế là xong rồi