Gia Định thất thủ phú

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Gia Định thất thủ phú
của Phan Văn Trị

Thương thay đất Gia Định!
Tiếc thay đất Gia Định!
Vực hóa nên cồn;
Đất bằng nổi sóng.
Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến Trâu,
Dây thép giăng nhấp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng.
Bờ cõi phân chia khác mặt, trông ra như quáng như mờ;
Non sông dời đổi họa mày, tưởng tới dường mê dường mộng.
Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, dọc ngang xe ngựa đất cào bằng;
Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát chợ nhà trời dậy sấm.
Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt âu ca[1];
Tò te kèn thổi dội trời Nam, man mác năm canh không tiếng trống.
Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh[2];
Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
Từ Bến Thành trải qua Chợ Đũi, loài tinh chiên[3] loạn xạ[4] biết bao nhiêu;
Nơi Chợ Lớn sấp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.
Cầu Bà Nghè cùng nơi Chợ Quán, quân tham tàn đắc ý vểnh râu;
Chùa Cẩm Thảo trải tới Cây Mai, phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.
Nơi nơi nổi xóm mới nhà Tây;
Chốn chốn lập đồn canh ụ súng.
Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô thân thể đều khô;
Bát ngát nhẽ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng người đời cũng rụng.
Mấy dặm Gò Đèn, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp tan tành;
Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống rỗng.
Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu;
Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống.
Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng yên phần;
Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bầy trẻ con khôn nỗi sống.
Sau trước vầy đoàn bạch quỷ, dân ta đòi bữa đòi suy;
Đêm ngày ỏi tiếng Lang sa; thế nó càng ngày càng lộng.
Cờ Thành Thang[5] sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chông gai;
Ao Võ Vương[6] sao chẳng thấy gầy, nỡ để dân đen bùn lấm.
Đầu Trung Nguyên tóc hãy còn dài, ơn này nhờ có bá, học Xuân Thu xin chờ kiếm Hoàn Công[7];
Tay tả nhẫm áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, đọc Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng[7].
Bóng xế dặm ngàn mây man mác, nước non này ai thấy cũng buồn;
Trời chiều chim chóc nhảy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động.
Từ nay nhân cảm với cuộc đời;
Vậy nên tả một bài ngẫu vận.

   




Chú thích

  1. Âu ca: cùng hát đều một điệu, như ngày nay nói đồng ca. Vì có vui vẻ mới âu ca, cho nên nói trăm họ âu ca là nói trăm họ thái bình, hát đều để chúc tựng chế độ.
  2. Hư kinh: kinh hãi vì việc không đâu.
  3. Loài tinh chiên: giống tanh hôi, chỉ bọn xâm lược Pháp và lũ vô lại tay sai.
  4. Loạn xạ: nguyên động từ Hán, nghĩa là bắn tên lung tung. Trong tiếng Việt miền Nam, loạn xạ thành một tính từ hoặc trạng từ có nghĩa là nhiều lắm và lộn xộn.
  5. Thành Thang: vua sáng lập nhà Thương, đã đánh diệt vua Kiệt, bạo chúa nhà Hạ.
  6. Võ vương: Vua nhà Chu đã đánh diệt vua Trụ, bạo chúa nhà Thương.
  7. a ă Hoàn Công, Quản Trọng: đời Xuân Thu Quản Trọng tự là Di Ngô, tướng quốc nước Tề đã giúp Tề Hoàn Công chỉnh đốn chính trị và quân bị, tập hợp chư hầu xướng nghĩa tôn Chu (thiên tử) làm nên nghiệp bá. Trong hai câu này hình như tác giả muốn nói về hành động của Trương Định và những nghĩa sĩ mưu việc dẹp giặc cứu nước, mà thời ấy cũng có người chê là không tuân mệnh vua.