Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển/Chương VII

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển
của Chính phủ Thụy Điển, do Cục Bản quyền tác giả dịch
Chương VII: Trách nhiệm hình sự và dân sự

Điều 53.[sửa]

Người nào thực hiện hành vi vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật quy định tại chương 1 và 2 hoặc xâm phạm tới những quyết định được đưa ra theo Điều 41 khoản 2, hoặc Điều 50, sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù tới 2 năm, nếu hành vi đó được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.

Người nào vì mục đích sử dụng cá nhân mà sao chép chương trình máy tính đã được công bố hoặc một chương trình máy tính mà bản sao của chương trình đã được chuyển giao với sự cho phép của tác giả sẽ không thuộc đối tượng chịu trách nhiệm hình sự, nếu bản sao gốc không được sử dụng vì mục đích thương mại hoặc các hoạt động công cộng và người này không sử dụng các bản sao của chương trình máy tính ngoài mục đích sử dụng cá nhân. Người nào vì mục đích sử dụng cá nhân mà làm bản sao dưới dạng kỹ thuật số của các sưu tập dữ liệu dưới dạng kỹ thuật số đã được cung cấp tới công chúng, trong những điều kiện tương tự, sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

Các quy định của đoạn một cũng áp dụng nếu một người nhập khẩu vào Thuỵ Điển bản sao tác phẩm để phân phối tới công chúng, nếu những bản sao này được sản xuất ở nước ngoài thì trong trường hợp này các sản phẩm tương tự ở đây sẽ bị xử phạt theo đoạn 1.

Người nào vi phạm các lệnh của toà án về hình phạt theo Điều 53a, cũng có thể không phải chịu trách nhiệm pháp lý theo luật hình sự về hành vi vi phạm lệnh của Toà án.

Sự vi phạm có liên quan đến các hành vi được đề cập trong đoạn 1 hoặc 3 cũng như kế hoạch hành động của các hành vi này sẽ có thể bị xử phạt theo các quy định của Chương 23 Bộ luật Hình sự.

Điều 53a.[sửa]

Theo yêu cầu của tác giả hoặc người thừa kế của tác giả hoặc người có quyền sử dụng tác phẩm trên cơ sở được cấp phép, Toà án có thể ban hành lệnh cấm, phạt tiền người có hành vi vi phạm hoặc tái phạm Điều 53.

Khi nguyên đơn trình bày khả năng có thể xảy ra một hành vi vi phạm hoặc xâm phạm theo Điều 53 hoặc có thể có lý do khi khẳng định rằng bị đơn thông qua việc tiếp tục hành vi làm giảm giá trị mà quyền tác giả mang lại thì Toà án có thể ban hành lệnh trước khi vụ án có được phân xử cuối cùng hoặc nói cách khác là được quyết định. Không một lệnh nào được ban hành trước khi bị đơn có cơ hội phản hồi lại, trừ khi việc trì hoãn này gây ra rủi ro dẫn đến thiệt hại.

Lệnh như được nêu tại đoạn 2 chỉ có thể được ban hành khi nguyên đơn đặt cọc một khoản bảo chứng với toà án để đảm bảo cho những thiệt hại có thể gây ra cho bị đơn. Nếu nguyên đơn không có khả năng đặt cọc khoản bảo chứng này thì toà án có thể miễn việc đặt cọc cho nguyên đơn. Liên quan đến khoản bảo chứng, thì Chương 2, Điều 25 Luật Thực thi được áp dụng. Khoản bảo chứng sẽ được toà án kiểm tra trừ khi bị đơn chấp nhận nó.

Khi vụ án được đưa ra xét xử, Toà án sẽ quyết định lệnh cấm được ban hành theo đoạn 2 có còn được tiếp tục áp dụng hay không.

Những quy định về việc kháng cáo các quyết định theo Chương 15 Luật Thủ tục Tố tụng sẽ được áp dụng đối với việc kháng cáo các quyết định theo đoạn 2 và 3 và đối với thủ tục tại Toà cấp trên.

Đề nghị áp dụng hình phạt tiền có thể do người đã đề nghị ban hành lệnh của toà án đưa ra. Liên quan đến hình phạt này, đề nghị có thể dẫn đến một lệnh mới được ban hành về hình phạt tiền.

Điều 54.[sửa]

Người nào khai thác tác phẩm mà vi phạm Luật này hoặc những quyết định được đưa ra theo Điều 41 khoản 2 sẽ phải trả một khoản bồi thường cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả như một khoản tiền thù lao hợp lý cho việc khai thác tác phẩm.

Trong trường hợp việc khai thác tác phẩm được thực hiện cố ý hoặc vô ý do cẩu thả, một khoản bồi thường cũng sẽ phải trả cho thiệt hại ngoài số tiền thù lao mất đi cũng như phải trả cho những tổn thất về tinh thần và vật chất khác.

Người nào cố ý hoặc vô ý tiến hành các hành vi liên quan đến việc vi phạm hoặc xâm phạm theo Điều 53, sẽ phải trả cho tác giả hoặc người thừa kế của tác giả một khoản tiền bồi thường cho các tổn thất, thiệt hại về tinh thần và vật chất do các hành vi đó gây ra.

Điều 55.[sửa]

Người nào tiến hành các hành vi liên quan đến việc vi phạm hoặc xâm phạm theo Điều 53, dù có lý do chính đáng hay không chính đáng đều phải giao nộp lại cho tác giả hoặc người thừa kế của tác giả các thiết bị liên quan đến việc vi phạm hoặc xâm phạm. Tương tự cũng áp dụng đối với bản chữ, bản khắc in, khuôn đúc nặn, hoặc các thiết bị tương tự có thể sử dụng để sản xuất ra các vật thuộc các thể loại đã được đề cập đến.

Thay vì ban hành lệnh phải giao nộp lại như nêu trong đoạn 1, theo yêu cầu của tác giả hoặc người thừa kế của tác giả, liên quan đến những gì được coi là có lý do, Toà án có thể ra lệnh là những vật này sẽ bị tiêu huỷ hoặc sửa đổi theo các cách thức đặc biệt hoặc các biện pháp khác sẽ được tiến hành để ngăn chặn việc sử dụng không được phép. Yêu cầu này cũng có thể do công tố viên đưa ra, nếu nó dựa trên việc bảo vệ lợi ích của công cộng. Các lệnh được đề cập tại đoạn này sẽ không được ban hành nếu việc giao nộp hoặc các biện pháp nhằm ngăn chặn việc sử dụng không được phép đã được quyết định theo Bộ luật Hình sự.

Những quy định của đoạn 1 và 3 không được áp dụng đối với những người có được tài sản hoặc quyền đối với tài sản đó một cách hợp pháp, cũng như trường hợp liên quan đến công trình xây dựng một tác phẩm kiến trúc.

Nếu những thiết bị khác ngoài những thiết bị đã được đề cập tại đoạn 1 được sử dụng để làm các bản sao tác phẩm mà bị coi là vi phạm theo Luật này, thì các thiết bị hoặc giá trị của nó có thể bị buộc phải giao trả lại nếu biện pháp này được coi là cần thiết để ngăn chặn việc vi phạm hoặc có các lý do đặc biệt khác cho việc ra lệnh này. Điều này cũng được áp dụng tương tự đối với các thiết bị được sử dụng liên quan đến việc cố tình xâm phạm như được đề cập đến ở đây hoặc nó là một phần của kế hoạch thực hiện việc vi phạm này.

Điều 56.[sửa]

Bất kể những quy định của Điều 55, trong trường hợp được coi là có lý do trên cơ sở giá trị nghệ thuật hoặc kinh tế của bản sao tác phẩm hoặc trong các trường hợp khác Toà án có thể quyết định rằng những bản sao đó sau khi đã trả khoản thù lao cụ thể cho tác giả hoặc người thừa kế của tác giả thì có thể được đưa ra cung cấp cho công chúng hoặc được sử dụng nhằm các mục đích nhất định khác.

Điều 56a.[sửa]

Trường hợp có thể có lý do để cho rằng một người tiến hành các hành vi vi phạm hoặc xâm phạm như quy định tại Điều 53, nhằm mục đích bảo vệ chứng cứ liên quan tới việc vi phạm hoặc xâm phạm, Toà án có thể ra lệnh tiến hành điều tra về người đó để tìm kiếm vật chứng hoặc tài liệu được cho là quan trọng đối với việc điều tra hành vi vi phạm hoặc xâm phạm (điều tra vi phạm).

Lệnh điều tra vi phạm chỉ được ban hành khi những lý do đưa ra chứng tỏ rằng biện pháp đó quan trọng hơn cả những bất lợi hoặc thiệt hại có thể gây ra cho phía bên kia hoặc cho bất kỳ bên nào có lợi ích liên quan .

Những quy định của đoạn 1 và 2 cũng áp dụng đối với những hành vi vi phạm hoặc chuẩn bị thực hiện hành vi được nêu tại Điều 53 đoạn 5.

Điều 56b.[sửa]

Lệnh điều tra vi phạm được Toà án ban hành trong trường quá trình Toà giải quyết vụ án. Trong trường hợp thủ tục tố tụng chưa được tiến hành thì áp dụng những quy định liên quan đến thẩm quyền của Toà án đối với các vụ án dân sự . Tuy nhiên, những quy định của Luật Thủ tục Tố tụng liên quan đến giới hạn thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp đã được các cơ quan ngoài toà án thụ lý sẽ không được áp dụng.

Việc ban hành lệnh điều tra vi phạm chỉ có thể được tiến hành khi có đề nghị của tác giả, người thừa kế của tác giả hoặc bất kỳ người nào có được quyền khai thác tác phẩm trên cơ sở giấy phép. Khi thủ tục tố tụng chưa được tiến hành thì đề nghị nêu trên phải được đệ trình bằng văn bản.

Bên kia sẽ được dành cho cơ hội đệ trình báo cáo trước khi lệnh điều tra được ban hành. Tuy nhiên trong trường hợp sự trì hoãn gây ra nguy hiểm cho các vật chứng và tài liệu quan trọng cho việc điều tra vi phạm như có thể bị tháo dỡ, pháp huỷ, thay đổi thì Toà án có thể ban hành lệnh ngay lập tức để đảm bảo thực thi cho đến khi có quyết định khác.

Mặt khác, bất kỳ lệnh nào liên quan đến điều tra vi phạm được ban hành trước khi thủ tục tố tụng được bắt đầu sẽ được xem xét như khi nó được ban hành trong khi tiến hành thủ tục tố tụng.

Điều 56c.[sửa]

Lệnh điều tra vi phạm chỉ được ban hành khi nguyên đơn nộp cho toà án tiền bảo chứng để đảm bảo cho những thiệt hại có thể gây ra cho bên kia. Trường hợp nguyên đơn không thể nộp tiền bảo chứng thì Toà án có thể miễn cho nguyên đơn. Liên quan đến khoản bảo chứng, thì Chương 2, Điều 25 Luật Thực thi sẽ được áp dụng. Việc bảo chứng sẽ được Toà án kiển tra trừ khi bên kia chấp thuận việc bảo chứng đó.

Trường hợp liên quan đến việc kháng cáo các quyết định của Toà án về việc điều tra vi phạm cũng như liên quan đến thủ tục tại Toà cấp cao hơn áp dụng quy định về kháng cáo tại Chương 15 của Luật Tố tụng.

Điều 56d.[sửa]

Lệnh về điều tra vi phạm bao gồm các nội dung sau

1.mục đích điều tra,

2.đối tượng và tài liệu điều tra,

3.địa điểm điều tra.

Trong trường hợp cần thiết Toà án cũng sẽ quy định những điều kiện cho việc thi hành lệnh.

Điều 56e.[sửa]

Lệnh điều tra vi phạm có thể thi hành ngay. Nếu đơn yêu cầu thi hành không được nộp trong vòng 1 tháng kể từ khi lệnh được ban hành thì lệnh đó hết hiệu lực.

Trong vòng 1 tháng kể từ khi có quyết định thi hành mà người nộp đơn không chuẩn bị hoặc tiến hành các thủ tục liên quan đến việc thi hành thì các biện pháp đã được cam kết để điều tra vi phạm sẽ không còn hiệu lực. áp dụng tương tự đối với lệnh điều tra vi phạm hết hiệu lực khi việc điều tra đã hoàn thành.

Điều 56f.[sửa]

Lệnh điều tra vi phạm được tiến hành thông qua cơ quan thực thi tại địa phương theo các điều kiện được quy định bởi Toà án và áp dụng Chương 1 đến 3, Chương 16, Điều 10, Chương 17, Điều 1 đến 5, Chương 18 Luật Thực thi. Bị đơn chỉ được thông báo về việc điều tra nếu lệnh điều tra vi phạm được ban hành sau khi Toà án nghe ý kiến của nguyên đơn. Cơ quan điều tra có quyền chụp ảnh, ghi âm, ghi hình các vật chứng phục vụ cho việc điều tra. Cơ quan điều tra cũng có thể sao chép hoặc trích dẫn từ tài liệu để phục vụ cho việc điều tra.

Việc điều tra vi phạm không liên quan đến các văn bản nêu tại Chương 27, Điều 2, Luật Thủ tục Tố tụng.

Điều 56g.[sửa]

Bị đơn có quyền mời luật sư khi lệnh điều tra vi phạm được tiến hành. Việc điều tra không thể tiến hành trước khi luật sư có mặt. Tuy nhiên, điều này không áp dụng khi

1. không cần thiết trì hoãn việc điều tra, hoặc

2. có rủi ro khác mà mục đích của việc điều tra không đạt được.

Khi điều tra, cơ quan thực thi được phép mời các chuyên gia giúp đỡ trong trường hợp cần thiết.

Cơ quan điều tra có thể cho phép nguyên đơn hoặc đại diện của nguyên đơn tham gia vào việc điều tra nhằm cung cấp thông tin. Nếu cho phép việc tham gia này thì cơ quan điều tra phải cân nhắc tới việc nguyên đơn hoặc đại diện của họ chỉ được cung cấp thông tin về những gì đã điều tra được trong phạm vi cần thiết.

Điều 56h.[sửa]

Ảnh chụp và bản ghi âm, ghi hình của vật chứng cũng như bản sao của nó, và các trích đoạn từ các tài liệu sẽ được liệt kê và thông báo cho nguyên đơn và bị đơn.

Điều 57.[sửa]

Những quy định từ các Điều 53 đến 56 h cũng chỉ áp dụng đối với các quyền được bảo hộ theo các quy định của Chương 5.

Điều 57a.[sửa]

Ngoài các trường hợp được nêu tại Điều 53, người nào bán, cho thuê, hoặc chào bán hoặc đưa ra bán, đưa ra cho thuê hoặc vì các mục đích thương mại khác các thiết bị nhằm can thiệp hoặc thay thế một cách bất hợp pháp các thiết bị bảo vệ chương trình máy tính nhằm chống việc sao chép bất hợp pháp, sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù tới 6 tháng.

Điều 58.[sửa]

Toà án Thành phố Stockholm xét xử các vụ việc liên quan đến các tổ chức phát thanh truyền hình vi phạm Luật này. Áp dụng tương tự đối với các trường hợp liên quan đến việc yêu cầu tiền thù lao theo Điều 18, 26a, đoạn 1, 26i, đoạn 3, hoặc 47 và trong các trường hợp yêu cầu khoản tiền thù lao tương ứng trên cơ sở các Điều 45, 46, 48, 49, 49a và trong các trường hợp liên quan đến tiền thù lao đối với việc truyền phát lại theo Điều 26f.

Điều 59.[sửa]

Biện pháp hình sự đối với việc vi phạm Luật này có thể được tiến hành bởi công tố viên chỉ trong trường hợp có yêu cầu từ phía người bị hại hoặc vì lợi ích công cộng.

Biện pháp áp dụng liên quan đến việc vi phạm các quy định của Điều 3 hoặc các quyết định được đưa ra theo Điều 41 đoạn 2, có thể được tiến hành bởi vợ hoặc chồng của tác giả, bởi người thừa kế hàng trên hoặc hàng dưới hoặc bởi anh chị em ruột của tác giả.

Nếu có lý do để tin rằng việc vi phạm hình sự theo Luật này xảy ra, các thiết bị được đề cập tại Điều 55 có thể bị thu giữ; các nguyên tắc chung về bắt giữ trong các vụ án hình sự sẽ được áp dụng.