Mai đình mộng ký

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Mai đình mộng ký
của Nguyễn Huy Hổ

Mai đình mộng ký (Ghi chép giấc mộng ở đình Mai) là một truyện thơ Việt Nam do Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) sáng tác ở khoảng nửa đầu thế kỷ 19, gồm 298 câu thể lục bát có xen 2 bài thơ ngũ ngôn luật Đường.

Trăm năm là kiếp ở đời,
Vòng trần nay đã mấy người trăm năm.
Cuộc phù-sinh có bao-lăm,
Nỡ qua ngày bạc mà lầm tuổi xanh.
Duyên tế-ngộ, hội công-danh,
Là hai, với nghĩa chung-tình là ba.
Đều là đường cái người ta,
Là cầu noi đó, ai qua mới từng.
Tình duyên hai chữ nhắc bằng,
Há rằng duyên-chướng, há rằng tình-si.
Chuyện xưa còn có sá chi,
Đêm thanh vui chén muốn ghi nỗi mình.
Cho rằng hay giống có tình,
Chiêm bao lẩn-quất năm canh lần lần.

Nhớ xưa năm Tỵ, tháng Dần,
Thưởng xuân vừa gặp giữa tuần tròn trăng.
Thắng-du tiện nẻo quan đăng,
Trông vời non Liễu, băng chừng dặm hoa.
Trời hôm xuân nhuốm màu da,
Cơn mưa rửa tuyết, trận hà cuốn mây.
Chim về xao-xác lá cây,
Rừng Đông đã thấy tròn xoay bóng thiềm.
Lửa đâu thấp-thoáng trong rèm,
Khi đưa hương xạ, khi đem khói tùng.
Đá đâu lấp-ló giữa giòng,
Như bay hoa sóng, như trồng gương nga.
Thành đâu xây lấp yên-hà,
Đỉnh non nền cũ, cán cờ bụi sương.
Đền đâu lắng dấu khói hương,
Bể reo công trước, vàng tương mái tàu.
Lần theo ngọn nước làu làu,
Gió lay chiếc cọc, thuyền mau mái chài.
Trong gương ai cắm cành mai?
Dưới mày ai ném một vài lưu-tinh?
Phồn hoa nổi áng thị thành,
Này Phù-thạch phố là danh lịch triều.
Thú phong-lưu cũng ít nhiều,
Đèn chong vẻ tố, lò thiêu bụi trần.
Vũng doi trải mấy xây vần,
Dập-dìu còn đó với xuân dễ nào !
Thảo mà cánh điệp, lá đào,
Đi về Vu-giáp, ra vào Vũ-lăng.
Một trời hoa cỏ lâng-lâng,
Mơ-mòng mưa Sở gió Đằng đâu đây.
Chiều xuân chuốc chén vơi đầy,
Thử xem người tỉnh người say mới là.

Dã men vừa sánh giọng trà,
Nhà lan treo tháp, doành la xuống thuyền.
Gió xuân rút cánh buồm duyên,
Thiều-quang chín chục, vân-yên một chèo.
Bến tình nhẹ nhổ con neo,
Đầu mai yến vấn, mạn chèo oanh đưa.
Thảnh-thơi bầu rượu túi thơ,
Ngón cầm khiển-hứng, nước cờ giải-mê.
Não nùng vượn suối hoa khe,
Với người dường có vả-vê chữ tình.
Phong-quang tám bức vén tranh,
Bình non mượn khắm, gương doành lét tô.
Bến Nam liễu bá con đò;
Mảnh mây viễn-phố, cánh cò hàn-sa.
Ngàn đông khói lẫn lạc-hà;
Giọt mưa cổ-thụ, tiếng gà cô-thôn.
Vó câu pha gió nhẹ bon,
Bến lầu Bắc hỏi hoàng-hôn địch nào?
Trời Tây bóng hạc non sào,
Đường rêu khách quạnh ruổi vào Thiên-thai.
No xem góc bể chân trời,
Một xuân biết mấy mươi nơi dập-dìu.
Đòi nơi giốc-mục ca-tiều,
Cần hôn mấy cán, tơi chiều nửa manh.
Thảnh-thơi gió mát trăng thanh,
Nào đầm Đồng-lại, nọ ghềnh Bàn-khê.
Mảng vui sào cạy, mái-phê,
Doành Ngân bóng thỏ đã xê ngang đầu.
Nài xuân chén những kèo mau,
Tưởng duyên kỳ-ngộ, ngâm câu Vị -đường,
Này này quế-trạo lan-tương
Ví đua Xích-bích, chi nhường Đông-Pha.

Say-sưa đòi thú lân-la,
Giang-thành đã gióng canh gà sang tư.
Giấc hoè thiếp-thiếp lần mơ,
Trong mơ-mòng thấy tình cờ lạ sao.
Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,
Khi ra Động-khẩu, khi vào Bồng-doanh.
Đòi nơi chim lá hoa cành,
Dường chiều đón rước, như tình rủ-rê.
Mấy chòm len-lỏi sơn-khê,
Dòng ngăn thú dật, vách che bụi trần.
Ruổi quanh hoa-kính lần lần,
Cảnh tiên riêng đợi tay thần mở-mang.
Bầu trời ghẽ chiếm thanh-quang,
Nẻo xa trông rõ mấy trang lão-tùng.
Dưới tùng có gác Nghinh-phong,
Cách chừng thấy những phạm-cung bảo đài.
Băng chừng rảo bước tới nơi,
Tường sau nghìn gốc tảo-mai quanh thành.
Biển đâu nét tạc rành-rành,
Đề ba chữ “Thưởng-mai-đình” vàng tương.

Trong đình bốn báu sẵn-sàng,
Cánh mây mới thảo, ngòi sương chửa rời.
Xông mai chợt động bóng người,
Vẻ lan vừa chán vội dời gót sen.
Ghẽ ngang về mái tây-hiên,
Càng dao khuất bóng, xiêm tiên lẫn màu.
Ít nhiều chùm quẹn chồi thâu,
Hương thừa còn phảng-phất đâu trước đình.
Vẻ sao ngọc chuốt giá thanh,
Bút thần đố vẽ nên tranh truyền thần !
Giá sao báu Triệu, châu Tần,
Người sao so dưới cõi trần chưa ai !
Thực âu sắc nước hương trời,
Chặng dòng thần-nữ cũng vời tiên-cung.
Nguồn phong động khóa trùng-trùng,
Khách thơ thêm những mơ-mòng hồn thơ.
Biết đâu nước đợi non chờ,
Chúa xuân sao bỗng hững-hờ cho đang.
Bào tình lần thấm giọt Tương,
Thẫn-thờ ngọn khói cành sương một mình.
Lén vào kề trước Côn-đình,
Vách mai còn dán rành-rành tiên mai:

Lứa ngọc cùng ai đó ?
Trăng kia với khách này.
Một cành xuân đã sớm,
Mấy đóa tuyết nào bay.
Vẻ sạch mưa càng dãi,
Lòng thơm gió nỡ lay.
Bướm con đừng thóc-mách,
Cho hái có dường tay.
(Bài thơ Thưởng mai nguyên vận)

Tứ cao cách lạ tột vời,
Quần-thoa hiếm nhỉ nảy tài Âu, Tô !
Nữ-trung dễ mấy nầy ru !
Song mai kể mấy công-phu tập rèn.
Câu thần, chữ thánh, người tiên,
Hay đâu là chẳng sẵn nguyền trăm năm.
Phím hoàng đợi khách tri-âm,
Nên treo cân Lệ, ai cầm giá Côn.
Nghĩ mình giong-ruổi nước non,
Niềm kinh-quốc, nỗi hương-thôn bấy chầy,
Thốt chi bướm lũ ong bầy,
Đàn Tao nào mấy đua tay cắm vè.
Dù chăng con tạo khắt-khe,
Thì chi cánh điệp còn mê với tình.
Trót đà tới Mẫu–đơn–đình,
Thơm chăng cũng bẻ một cành làm duyên.
Tục-điêu cẵng bộ vần tiên,
Liễu-trì trước lá hoa-tiên thế nào?
Ngòi dao vừa ráo luật Đào,
Với vần thơ trước sắp vào một phong:

Dao trì in vẻ ngọc,
Đúc lại lá tiên này.
Nản gió hoa vừa náu,
Này hương nguyệt muốn bay.
Chiếc đình còn phảng-phất,
Cái bướm bỗng thày-lay.
Chẳng những xuân kia chọn,
Thần tiên cũng chắp tay.
(Bài họa vần thơ thưởng-mai)

Người tiên dẫu cách mấy trùng,
Dấu tiên cẵng phó thi-đồng chắt-chiu.
Bỗng dưng trăng dật gió dìu,
Làm sao lui tới cho đeo-đẳng này.
Cuộc mê càng mải-miết thay,
Dập-dờn chiếc-bóng, chay-vay trót giờ.
Một đình, một khách thẩn-thơ,
Thôi thầm-thì hỏi, lại mơ-mẩn chào.

Hiên đâu kéo dãy hoa đào,
Đánh liều cả quyết bước vào thử xem.
Thướt tha tơ liễu buông rèm,
Trà non uốn điệu, dương mềm khoe tươi.
Nhụy xuân rước gió như cười,
Chòm thanh, khóm dật, khác vời chân-du.
Có cây có đá lô-xô,
Có lầu túc-điểu, có hồ du-ngư.
Giữ trời một cuộc tiên-cư,
Đình-đài mấy tóp, đồ-thư mấy từng.
Hoa say, hạc ngủ, mơ chừng,
Một rằng Bích-động, hai rằng Thanh-tiêu.
Một hiên Huy-phượng cheo-leo,
Thấp đưa gió trúc, cao reo sóng tùng.

Tiểu-hoàn lẩn bóng hiên-trung,
Vén cành biếc, hái hoa hồng trước lang.
Bóng người chợt thấy dung-quang,
Lanh-chanh bước tới sổ-sàng hỏi ngay:
“Người đâu quan-khách đâu đây ?
Lạ-lùng xông-xáo chốn này là sao !”
Nhủ rằng: “Chớ đổ nhau nao !
Qua đình Mai, thấy thơ nào bỏ rơi.
Tài này Lý Đỗ một hai,
Xuân in cảo liễu, tuyết tươi nét tùng.
Nhời đâu thần khế, đạo đồng,
Hạnh-đường bao ná, nhủ cùng được hay !”
Hoàn rằng: “Mơ-mẩn ngán thay !”
Vội vàng giật lấy tiên mây trở vào.
Tuyệt mù nào thấy đâu nào,
Càng bay phấn điệp, hoa xào cánh thơm.
Mảnh riêng càng nát như tươm,
Càng ngơ-ngẩn bóng, càng nâm-nỉ tình.
“Chắc chi con trẻ đành-hanh,
Tin sương có lọt trước manh cho chăng?
Tấc gang cách mấy mươi từng,
Không dưng hầu dễ gió Đằng cợt ai.
Chớ rằng lá thắm giòng khơi,
Một thơ kéo được tơ trời mà hay !
Kiếp xưa cũng thế nào đây?
Họa-hoằn chăng chẳng là tay vuông tròn.
Mảnh tiên tạc lấy sắc son,
Tấc lòng đem hỏi, nước non mượn bàn.”

Bàn-mê những ngóng tin nhàn,
Nhởn-nhơ sực thấy bóng Hoàn tận nơi.
Tăn-măn nói nói cười cười,
Rằng: “Vâng Nghiêm-lệnh rước người về sanh.”
Cảnh-tình một bước một thanh,
Tắt chừng thư-các, rảo quanh trì-đường.
Ngoài-sanh, giá lục xây vàng,
Bình đan xuân vẽ, đài gương bóng lồng.
Trong sanh, mở cánh phù-dung,
Mắt trần luống những lạnh-lùng vẻ Ngân.
Ỷ trên thấy một phu-nhân,
Bước vào tự lễ phân tân trước tòa.
Dạy rằng: ”Quê ở đâu xa?
Ấy ai thóc-mách nên mà biết đây?”
Dứt lời, rén rén thưa bày:
“Khi xưa dòng-dõi, khi nay phong-trần,
Mảng vui nước trí non nhân,
Đăng lâm trót hẹn với xuân một lời.
Cho nên trẹo nẻo lạc vời,
Phúc-giang, Phượng–lĩnh là nơi quê nhà.
Thày-lay vâng chịu trót đà,
Hạnh nào lượng bể bao-la muôn nhờ.”

Nghe thôi lẳng-lặng trót giờ,
Ngọc khoan khoan mới xa đưa dịu-dàng:
“Rằng gia-quân với nghiêm-đường,
Chữ luân xưa cũng mối-giường một hai.
Đền Thương cùng nếm vạc mai,
Cũng trong Y Phó, cũng ngoài Tôn Ngô.
Nấy sương vẹn bước vân-cù,
Dẫn nhàn riêng chiếm thú hồ-sơn đây.
Cơ trời dâu bể vần-xây,
Trần-kiều biết mặt Chu này là ai.
Lửa binh rấp thuở chông gai,
Áo xiêm đổi thói, cân đai đau lòng.
Nặng nguyền hưu thích dữ đồng,
Theo chầu Liệt-thánh năm dòng mười dư.
Bận-bùng còn chút ngây-thơ,
Điền-thôn quen lấy cầm thư đỡ phiền.
Dù chăng cảnh bụt làng tiên,
Với trần nghĩ đã diễn miền nước mây.
Tiền-nhân túc-trái sao đây?
Không dưng người biết chốn này là đâu.
Mới rồi dạo tới thư-lâu,
Nhẹ-nhàng vừa thấy con hầu nói qua.
Khách nào la-lướt yên-hà,
Một mình thơ-thẩn dò-la hạnh đường.
Lại đưa hai bức thi-chương,
Khác chiều nên bảo đón chàng vào chơi…
Lời quê trẻ nó dông-dài,
Thêm hoa may lại gặp tài văn-nhân.
Xem trong xướng-họa mấy vần,
Lấy mai mà vẽ lòng xuân cần-quyền.
Hay đâu là nợ là duyên,
Là thân trước trẻ là nguyền xưa ngươi.
Khen cho cẩm tú sắc tài,
Lạ cho con Tạo lựa người ghê thay !
Kiếp trần dây-dướng dường này,
Lửa-hương chờ đợi đến tay anh-hùng.
Ấy nhân-duyên, ấy tao-phùng,
Dẫu đâu sắc sắc không không, nghĩ gì.
Lọ là nhạn cá đi về,
Lứa đôi chăng lại một kỳ tái lai.
Nền thi-lễ cẵng dùi-mài,
Tiếng khôi đừng thẹn với mai mới hào !
Duyên lành hẳn đợi giá cao,
Đất bằng sấm dã, thơ đào lại ca.
Xe duyên đành có Trăng-già;
Mặc-dù nhân-quả, chớ ra quan-hoài.
Hồn mai còn nhớ đình Mai,
Cảnh quen hẳn chẳng lạ người quen đâu.
Còn non còn nước còn lâu,
Còn câu thơ ấy là câu sấm rồi.”

Đương khi từ tạ khúc-nhôi,
Giang-thôn đâu động tiếng còi mục-nhi.
Trong thuyền sực tỉnh đòi khi,
Tấc riêng dồn-dã khôn suy tin ngờ.
Nào đình, nào khách, nào thơ?
Bấy giờ hồ-điệp, bây giờ Trang-sinh!
Cũng trong hai chữ chung-tình,
Sao người thường bấy, mà mình quái thay !
Tài-tình xem lại xưa nay,
Kiếp người may với chẳng may cũng nhiều.
Cuộc đời mây nổi, nước triều,
Tình bao-nhiêu, nợ bấy-nhiêu, hay gì.
Lấy điều mộng ảo mà suy,
Một thì là giác, hai thì là mê.
Mê chăng một lúc đi về,
Giác thì duyên ấy còn ghê sau này.
Thấy đây còn biết từ đây,
Bao-giờ sao nữa lại hay bấy-giờ.
Hoàn thiên tẩu bút một thơ,
Quê đâu chữa đó là nhờ tao nhân.

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.