Ngã ba Hạc phú

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Ngã ba Hạc[1] phú
của Nguyễn Bá Lân

Vui thay! Ngã ba Hạc ; vui thay! Ngã ba Hạc.
Dưới họp một dòng ; trên chia ba ngác.
Ngóc-ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào[2] ; lênh-lang dễ biết sâu nông, nước đen[3] pha nước bạc.
Nhớ xưa: Vũ trụ mơ màng , càn khôn xếch-xác.
Vua Bàn-cổ[4] khai lò tạo-hóa, hồng-mông[5] đà phơi-phới hơi xuân ; họ Hữu-Ngu[6] khơi mạch sơn-hà, cương-giới vẫn rành-rành dấu tạc.
Vậy có: Nắm đất Đoài-phương[7] ; cạnh giời Nam -quốc.
Ba góc bờ chia vành - vạnh, huyệt kim-qui[8] hẻm đá rộng hông-hênh ; hai bên cỏ mọc lâm-dâm, hang anh-vũ[9] giữa dòng sâu huếch-hoác.
Mọi thú mọi vui ; một chiều một khác.
Lơ-thơ đầu ông Lã[10] thả cần ; trần-trụi mặc Chử-đồng[11] ngâm nước.
Bè khách-thương bạ[12] bến, cắm neo quỳ gối lắc cày xuôi[13] ; thuyền ngư - phủ thuận dòng, giương nách khom lưng chèo tếch ngược[14].
Dùi điểm thùng thùng trống gọi, cửa tuần-ty[15] rộn-rã khách chen vai; chày đâm văng-vẳng chuông đưa, nền Phật-tự[16] lao-xao người rén bước.
Khác gì : Những chốn Tiêu Tương[17] ; đồ Tranh thủy mặc[18].
Trên lọ phải vén quần vua Tống[19], ra sức anh uy; dưới cũng vui vỗ bụng giời Nghiêu[20], dắng ca canh tạc[21].
Ta nay : Qua miền Tam - đái[22], dứt dải sông lô; thấy Ngã ba Hạc vui thay, làm chơi một đạc[23].
Ai hữu tình ngắm lại mà coi, kể làm cực nhân - sinh chi khoái-lạc.

   




Chú thích

  1. Ngã ba Hạc : chỗ hợp - lưu của ba ngọn sông là sông Đà ( hoặc sông Bờ ), sông Lô ( hoặc sông Tuyên ) và sông Nhị-Hà, ở giáp huyện Bạch-Hạc ( nay thuộc tỉnh Vĩnh-Yên )
  2. Dòng biếc lẫn dòng đào : dòng biếc là sông Lô nước trong xanh; dòng đào là sông Nhị nước đỏ
  3. Nước đen : nước sông Đà đen
  4. Bàn-cổ 盤 古 : theo thần-thoại của Tàu, họ Bàn-cổ phân ra trời đất tự đấy mới có thế-giới và vạn-vật
  5. Hồng-mông 洪 蒙 : mênh-mông mờ-mịt ; đây là nói về vũ-trụ lúc mới khởi thủy
  6. Hữu-Ngu 有 虞 : họ của vua Thuấn (2042-1989). Vua Thuấn sai ông Vũ trị thủy và định cương giới chín châu trong nước Tàu
  7. Đoài-phương : phương tây. Huyện Bạch-hạc trước thuộc về Sơn - Tây
  8. Kim-qui : con rùa vàng. Tục truyền ở sông Hạc có con rùa vàng ở trong hang đá
  9. Anh-vũ : tên một thứ cá, thịt ngon, ở sông Hạc có nhiều
  10. Ông Lã : tức là Lã Thượng 呂 尚 : hoặc Khương Tử - Nha 姜 子 牙 ( còn gọi là Thái-công Vọng 太 公 望 : hoặc Sư-thượng-phụ 師 尚 父 ) một bậc hiền-thần đời nhà Chu. Cuối đời nhà Thương, về đời vua Trụ, ông ẩn cư ở Bàn-Khê 磻 溪 ( thuộc tỉnh Thiểm-tây ); một hôm ông ngồi câu cá trên bờ sông Vị, vua Chu Văn-vương đi săn gặp, đón ông về dùng. Sau giúp vua Chu Vũ-vương ( con Văn-vương ) đánh vua Trụ, lập nên cơ-nghiệp nhà Chu
  11. Chử đồng : tức là Chử đồng - tử 禇 童 子. Theo sách Lĩnh nam trích quái, vua Hùng-vương thứ ba có người con gái là nàng Tiên-Dong một lần đi chơi thuyền trên sông Nhị - hà, ghé vào bến làng Chử-xá ( nay thuộc huyện Văn-giang, tỉnh Bắc - ninh ), lên trên bãi cát tắm, không ngờ gặp Chử đồng-tử trần-trụi (vì quá nghèo không có khố đóng )đang nép mình trong cát; nàng cho là duyên trời xui khiến, bèn lấy Chử đồng-tử. Sau vua cha giận. Sai quan quân đến bắt, thì cả hai vợ chồng hóa phép bay lên trời
  12. Bạ : đến gần
  13. Cắm neo quỳ gối lắc cày xuôi : tả việc nhà thuyền neo thuyền cho chặt theo xuôi dòng nước
  14. Giương nách khom lưng chèo tếch ngược: tả việc chèo thuyền ngược dòng sông
  15. Tuần-ty 巡 司 : sở của Chánh-phủ lập ra để đánh thuế các hàng-hóa của người buôn-bán
  16. Phật tự 佛 寺 : chùa thờ Phật
  17. Tiêu, Tương 瀟 湘: sông Tiêu và sông Tương hợp-lưu với nhau ở địa-phận tỉnh Hồ-nam bên Tàu
  18. Thủy mặc 水 墨 (nước và mực): lối vẽ không dùng đến các màu, chỉ dùng mực hòa với nước
  19. Vén quần vua Tống: theo câu trong Tống sử: «Kiến dân cơ hàn, tắc kiển thường nhu túc dĩ cứu chi 見 民 饑 寒 ,則 褰 裳 濡 足 以 救 之». (Thấy dân đói rét thì xắn quần ngâm chân xuống nước để cứu lấy) câu ấy khen vua Tống Thái-Tổ thấy dân đói thì phát chẩn cũng như người thấy người khác sắp chết đuối thì xắn quần lội xuống nước mà cứu
  20. Vỗ bụng giời Nghiêu : đời vua Nghiêu (một bậc thánh-quân về đời thượng-cổ nước Tàu) có ông Lão vỗ bụng mà hát để ngợi khen cái cảnh thái-bình
  21. Canh tạc : đây nhắc đến hai câu trong bài hát của ông lão đời vua Nghiêu nói trên. Canh điền nhi thực, tạc tỉnh nhi ẩm 耕 田 而 食 ,鑿 井 而 飲 (Cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống)
  22. Tam đái : tên phủ về đời Hậu Lê thuộc Sơn tây, gồm có sáu Huyện: Phù-ninh (nay thuộc Phú-Thọ), Bạch-Hạc, Lập-thạch, Yên-lạc (nay thuộc Vĩnh-yên), Yên-lãng (nay thuộc Phúc-yên), Tân-phong (nay là Quảng-oai, thuộc Sơn-tây)
  23. Đạc: đây tức là một bài


Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.