Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua tổng quyết toán quốc gia năm 1956 và tổng dự toán quốc gia năm 1957

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua tổng quyết toán quốc gia năm 1956 và tổng dự toán quốc gia năm 1957  (1957) 
của Quốc hội Việt Nam

Nghị quyết được ban hành ngày 18 tháng 9 năm 1957

Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ về tổng quyết toán quốc gia năm 1956 và tổng dự toán quốc gia năm 1957;

Sau khi nghe Tiểu ban nghiên cứu về ngân sách thuyết trình và các vị đại biểu thảo luận,

QUYẾT NGHỊ :

1. Thông qua toàn bộ bản tổng quyết toán quốc gia năm 1956 với tổng số thực thu là bẩy trăm bốn mươi tư tỷ ba trăm bẩy mươi sáu triệu tám trăm chín mươi tám nghìn bốn trăm tám mươi lăm đồng (744.376.898.485 đồng), tổng số thực chi là bẩy trăm linh chín tỷ bẩy trăm bẩy mươi sáu triệu ba trăm mười bốn nghìn lẻ chín đồng (709.776.314.009 đồng) và giao Chính phủ trách nhiệm quyết toán số mười một tỷ tám trăm năm mươi sáu triệu năm mươi ba nghìn ba trăm linh năm đồng (11.856.053.305 đồng) chưa quyết toán.

2. Tổng quyết toán quốc gia năm 1957 cần được Chính phủ trình để xét duyệt sớm hơn.

3. Thông qua toàn bộ tổng dự toán quốc gia năm 1957 với tổng số dự thu là tám trăm năm mươi sáu tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu đồng (856.391.000.000 đồng), tổng số dự chi là tám trăm năm mươi sáu tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu đồng (856.391.000.000 đồng).

4. Uỷ quyền cho Chính phủ có thể căn cứ vào nguyên tắc bảo đảm thăng bằng thu chi dự toán, điều chỉnh đúng lúc những khoản thu chi nào cần phải điều chỉnh, cố gắng giảm bớt những khoản chi tiêu không cần thiết, cố gắng động viên mọi khả năng tiềm tàng trong nhân dân, cơ quan và xí nghiệp, những khoản điều chỉnh này phải báo cáo cho Ban Thường trực Quốc hội biết và báo cáo trước Quốc hội trong khóa họp gần nhất.


Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 18 tháng 9 năm 1957.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".