Nghị quyết số 426 NQ/TVQH

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Nghị quyết số 426 NQ/TVQH về việc bổ nhiệm Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại một số nước  (1974) 
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam

Nghị quyết được ban hành ngày 26 tháng 2 năm 1974.

Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Điều 31 của Luật tổ chức quốc hội;

Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ,

QUYẾT NGHỊ:

Bổ nhiệm:

1. Đồng chí Hoàng Tú giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Dân chủ Đức, thay đồng chí Nguyễn Song Tùng về nước nhận công tác khác;

2. Đồng chí Nguyễn Thanh Hà giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Rumani, kiêm nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư, thay đồng chí Nguyễn Đăng Hành về nước nhận công tác khác;

3. Đồng chí Long Thuận Phước giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Ảrập Xyri, kiêm nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Irắc, thay đồng chí Hoàng Đức Phong về nước nhận công tác khác;

4. Đồng chí Nguyễn Ngọc Uyển giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, kiêm nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Liên bang Thụy Sĩ, thay đồng chí Lê Trang về nước nhận công tác khác;

5. Đồng chí Nguyễn Xuân Hòe giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, thay đồng chí Đỗ Quốc Cường về nước nhận công tác khác;

6. Đồng chí Chu Văn Biên, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Ấn Độ kiêm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Nhân dân Bănglađét, kiêm nhiệm thêm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Xri Lanca, thay đồng chí Hoàng Thành Trai về nước nhận công tác khác.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".