Tương giang dạ bạc

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tương giang dạ bạc - 湘江夜泊
của Nguyễn Du
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

一去六十里
悠悠江水長
浮雲連五嶺
明月會三湘
別浦分新色
遥空失故鄉
鶴來人不見
晚樹鬱滄滄

Nhất khứ lục thập lý,
Du du giang thủy trường.
Phù vân liên Ngũ Lĩnh[1],
Minh nguyệt hội Tam Tương[2].
Biệt phố phân tân sắc,
Dao không thất cố hương.
Hạc lai[3] nhân bất kiến,
Vãn thụ uất thương thương[4].

Đi một mạch sáu mươi dặm
Nước sông chảy dài dằng dặc
Mây nổi nối liền dãy Ngũ Lĩnh
Trăng sáng tụ lại vùng Tam Tương
Phố xa chia sắc đẹp mới
Trời vòi vọi làm mất quê cũ
Hạc trở lại nhưng không thấy người cưỡi hạc
Cây buổi tối chứa lạnh lẽo

   




Chú thích

  1. Dãy núi cao năm ngọn chạy giáp địa phận hai tỉnh Hồ Nam và Quảng Tây
  2. Tương giang bắt nguồn từ Quảng Tây chảy theo hướng Đông bắc vào tỉnh Hồ Nam, lúc đầu hợp với Ly Thủy gọi là Ly Tương, sau hợp với Tiêu Thủy thành Tiêu Tương, rồi chảy lên phía bắc huyện Hành Dương hợp với Chưng Thủy gọi là Chưng Tương (cho nên gọi là Tam Tương), sau chảy đến Trường Sa, vào Hồ Động Đình
  3. Nhắc tích ông Phí Văn Huy cưỡi hạc vàng lên tiên ở lầu Hoàng Hạc, lầu này ở phía tây nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, gần vùng Tương Giang
  4. Lạnh lẽo