Đại Việt sử ký toàn thư/Tập I/Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

BIỂU DÂNG SÁCH

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ

Hữu-Thị-Lang bộ Lễ, Triều-Liệt đại-phu, kiêm Tư-Nghiệp trường Quốc-Tử-Giám, kiêm Tu-soạn Sử-Quán, tôi là Ngô Sĩ-Liên.

Nhân nay cúi đội ơn Thánh, cất tôi vào chức trong Quán, tôi đem hai bộ sách « Đại-Việt Sử-Ký » đời trước, tham-khảo với Dã-sử, biên tập thành bộ « Đại-Việt Sử-Ký toàn thư ». Kính viết cẩn-thận làm mười lăm cuốn tâu lên...

Tôi, Ngô-Sĩ-Liên, thực hoảng, thực sợ, cúi đầu, dập đầu thưa trình:

Cúi xét:

Gió văn lan rộng, vừa gặp khi vận cả đương lên.

Bút sử sửa lần, chép lại chuyện đời xưa cho rõ.

Ý nông-hẹp dám bầy tỏ hết.

Lượng cao-sang mong thấu suốt cho!

Tôi trộm nghĩ:

Chuyện xưa có sử là sách đáng tin.

Nhà nước coi nó là việc khá lớn:

Dùng để chép quốc-thống khi tan, hợp;

Dùng để rõ chính-trị khi thịnh, suy.

Còn mong treo gương sáng lại đời sau;

Chẳng những xét cơ-mầu về thuở trước...

Hay, dở phải khen, chê đủ lẽ, họa có ích cho việc khuyên, răn!

Bút-nghiên cần khó-nhọc lâu công, mới đáng kể là tay trước-thuật!

Phải rằng viết bậy!

Hồ dễ nói chơi!

Kể sách « Đại Việt sử ký » nước nhà,

Chép chuyện chính-trị các vua đời trước:

Thường chống chọi các triều phương Bắc.

Vẫn dõi truyền một cõi trời Nam...

Ức, muôn năm dòng chính đổi trao: núi cao, biển cả...

Năm, bẩy lớp sử xưa rực-rỡ: chúa thánh, vua hiền..

Dù hay, hèn có lúc chẳng đều,

Nhưng hào-kiệt chưa đời nào thiếu!

Trông về dấu cũ,

Vẫn đáng lòng tin.

Từ trước đời Ngô, ngao-ngán nỗi loạn nhiều trị ít!,

Rồi sau triều Lý, giần-già xem thời đổi, thế dời!

Trị mãi rồi, biến-loạn nẩy ra!

Sương chớm xuống, tuyết, băng sắp tới!...

Cướp quyền-chính, lũ gian thần được thể!

Lấn đất-đai, quân địch-quốc thừa cơ!

Binh tung sang, căn lũ giặc Minh giáo, gươm đầy đất!

Lửa đốt sạch, thương ôi vận nước, sách vở đi đời!

Muốn tìm sự tích sau cơn khói lạnh, tro tàn,

Thật rất khổ tâm về nỗi nét sai, chữ sót!

Mừng nay triều Thánh

Tìm kiếm sử xưa.

Chiếu trời ban xuống cầu, mua.

Sách lạc trước, sau họp-tập.

Đã sắc các triều-thần soát-xem, bàn-bạc;

Lại truyền cho sử-quán sửa chữa, điểm-tô.

Bỏ hết phù-hoa;

Cốt sao xác-thật!

Tôi đương buổi ra vào quán-các,

Được dự hàng theo rõi bút-nghiên...

Chẳng may gặp phải dớp nhà,

Không kịp thấy khi nên sách.

Nghĩ chí cũ chưa đền muôn-một,

Đem sách xưa thêm sửa ít nhiều:

Đủ sự-tích vua tôi các triều;

Bầy duyên-cớ thịnh, suy mọi lẽ...

Năm đủ vòng ở trên mà đạo Trời tỏ rõ;

Vua chính ngôi ở dưới mà dân-nước gây nên.

Cho đến các chế-độ, mối-diềng,

Cùng là chuyện lễ-văn, đánh rẹp,

Hết thẩy đều:

Sai-lầm thì sửa-chữa;

Thiếu sót thì bù thêm.

Phụ lời bàn nông-hẹp để phát-minh.

Cho những lẽ quan-hệ đến phong-hóa.

Lại thêm vào tập Hồng-Bàng, Thục-Vương ngoại-kỷ »,

Lấy tên là bộ « Đại-Việt Sử-Ký toàn-thư ».

Hiện đã thành pho,

Gồm ngần này cuốn.

Năm, biên-chép theo gương Mã-sử,[1] chắp, vá thẹn riêng!..

Việc, sắp-bầy học phép Lân-Kinh[2] nghiêm-trang dám đọ!..

Nhưng lối học trí-tri, cách-vật,

Cùng lẽ thường thiên-đạo, nhân-luân,

Thư-nhàn hoặc-giả những khi,

Xem đọc cũng là có ích.

Tin còn đó mà ngờ còn đó, nghiệp sách đèn mong khỏi thẹn cùng...

Việc ra sao thì chép ra sao, dấu văn-hiến họa còn xét thấy!

Tôi, Ngô-Sĩ-Liên, xem Trời, trông Thánh, tình kẻ dưới khôn xiết thiết-tha run-sợ rất mực, kính trang-hoàng thành bộ, phong đủ, kèm theo biểu dâng lên.

Niên hiệu Hồng Đức thứ mười, năm Kỷ Hợi, tiết Đông-Chí.

  1. Sử-ký của Tư-Mã-Thiên.
  2. Sách Xuân-Thu của Khổng-Tử. (Vua Lỗ đi săn, bắt được con lân. Khổng-Tử cảm việc đó bèn sửa lại sử nước Lỗ làm sách Xuân-Thu, chép đến việc « bắt được con lân » thì tuyệt bút!) Hai câu này, tác giả dụng công đem chữ « lân » đối với chữ « mã » (con ngựa). Đó là một lối chơi chữ của các nhà làm văn biền-ngẫu. — Cả bài này viết theo lối Tứ-Lục. Các chế, chiếu của nhà-vua cùng các biểu của các quan từ đời Tống về sau thường hay dùng lối ấy. Sở-dĩ gọi là tứ-lục, vì trong một câu, đoạn trên thường 4 chữ, mà đoạn dưới thường sáu chữ. Nó là một trong các loại văn biền-ngẫu (hai vế đối chọi nhau).