Bước tới nội dung

Bài phát biểu tại cuộc điều trần nhằm phê chuẩn ông Daniel J. Kritenbrink, ứng viên Đại sứ Hoa Kỳ

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bài phát biểu tại cuộc điều trần nhằm phê chuẩn ông Daniel J. Kritenbrink, ứng viên Đại sứ Hoa Kỳ  (2017) 
của Daniel Joseph Kritenbrink, do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam dịch

Bài phát biểu của Daniel Kritenbrink trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ ngày 27 tháng 9 năm 2017 nhằm phê chuẩn ông trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ông này sau đó đã nhậm chức vào ngày 6 tháng 10.

Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ
Ngày 27 tháng 9 năm 2017

Xin cảm ơn ngài Chủ tịch [Tiểu ban Các vấn đề Đông Á, Thái Bình Dương và Chính sách an ninh mạng quốc tế thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ] Gardner, ngài Phó chủ tịch [Tiểu ban] Markey và các thành viên của Ủy ban đã dành cho tôi vinh dự giải trình trước các vị, và đã xem xét đề cử của Tổng thống dành cho tôi để trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tiếp theo tại Việt Nam. Tôi biết ơn một cách sâu sắc về sự tin tưởng mà Tổng thống Trump và Ngoại trưởng Tillerson đã dành cho tôi. Tôi cũng muốn cảm ơn vợ tôi Nami, và các con tôi, Mia và Joseph, vì đã tham dự cùng tôi hôm nay. Tình yêu của họ là một nguồn ủng hộ và động viên không ngừng đối với tôi, mà nếu không có nguồn động viên này, có lẽ tôi sẽ không thể có mặt tại đây.

Nếu được phê chuẩn trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, tôi mong muốn làm việc một cách chặt chẽ với Thượng viện để thúc đẩy lợi ích của nước Mỹ và tiếp tục xây dựng mối quan hệ vốn đã vững chắc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.

Tôi luôn luôn mong ước được phục vụ đất nước mình, và tôi đã may mắn thực hiện được điều này khi đảm nhiệm vị trí Viên chức Ngoại giao của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kể từ năm 1994. Tôi đã dành phần lớn sự nghiệp của mình ở châu Á, và đã trải qua nhiều vị trí lãnh đạo. Tôi biết khu vực năng động này quan trọng đến mức nào đối với lợi ích của Hoa Kỳ. Có rất ít quốc gia châu Á mà ở đó chúng ta thấy rõ tác động của mối liên hệ lâu dài và sáng tạo của Hoa Kỳ như tại Việt Nam. Đó là điều tôi đã chứng kiến trực tiếp trong quá trình làm việc trước đây của tôi với người Việt Nam, bao gồm ba chuyến công tác chính thức tới Việt Nam, và khi tôi giám sát hoạt động đàm phán hai Bản tuyên bố chung với Việt Nam vào năm 2015 và 2016.

Trong 40 năm qua, mối quan hệ Hoa Kỳ – Việt đã trải qua một quá trình chuyển đổi sâu sắc. Nhờ những nỗ lực của các chính quyền Hoa Kỳ, Quốc hội, và các thành phần khác, như cựu chiến binh, cộng đồng doanh nghiệp và nhiều thành viên trong số hơn hai triệu người Mỹ gốc Việt, Việt Nam đã trở thành một đối tác quan trọng và mang tính chiến lược. Nếu trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, tôi sẽ nỗ lực để tiếp tục phát triển mối quan hệ Hoa Kỳ – Việt nhằm hỗ trợ nhiều lợi ích chung, bao gồm các lĩnh vực sau.

Thứ nhất, an ninh. Hai nước chúng ta đã mở rộng hợp tác quốc phòng một cách đáng kể, bao gồm thông qua sự hỗ trợ của Hoa Kỳ để tăng cường khả năng an ninh hàng hải của Việt Nam, như một phần của mối quan tâm chung của hai nước về duy trì luật pháp quốc tế và chống lại việc dùng sức mạnh cưỡng chế ở Biển Đông, một khu vực có vai trò sống còn đối với an ninh và các lợi ích thương mại của hai nước chúng ta, với tư cách là các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương. Chúng ta cũng giúp Việt Nam xây dựng năng lực để trở thành một thành viên có trách nhiệm và tích cực hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Chúng ta khuyến khích Việt Nam tiếp tục đóng vai trò tích cực trong khối ASEAN, và chúng ta ủng hộ các kế hoạch của Việt Nam nhằm đóng góp cho các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Hoa Kỳ và Việt Nam cũng tăng cường hợp tác để ngăn chặn Bắc Triều Tiên đe doạ khu vực thông qua các chương trình hạt nhân và tên lửa. Nếu trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, tôi sẽ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

Thứ hai, thương mại và đầu tư. Thương mại song phương với Việt Nam đã tăng trưởng hết sức nhanh chóng, từ 451 triệu đô la năm 1995 lên 52 tỷ đô la vào năm 2016. Năm ngoái, Việt Nam là thị trường xuất khẩu phát triển nhanh nhất của Hoa Kỳ. Đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tăng lên 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, rõ ràng vẫn còn những thách thức. Nếu trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, tôi sẽ nỗ lực để thúc đẩy xuất khẩu của Hoa Kỳ và mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư. Tôi cũng sẽ vận động cho một sân chơi bình đẳng cho các công ty và nhà đầu tư Hoa Kỳ, bao gồm thúc giục Việt Nam nâng cao tiêu chuẩn về lao động và môi trường, sự minh bạch của các doanh nghiệp nhà nước và bảo vệ sở hữu trí tuệ, để hai nước chúng ta có mối quan hệ thương mại mạnh mẽ, tự do và công bằng.

Thứ ba, nhân quyền. Đã có một số tiến bộ về nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam trong những năm gần đây, phần lớn nhờ vào sự tham gia của Quốc hội Hoa Kỳ và cuộc đối thoại song phương hiệu quả về những vấn đề này. Tuy nhiên, xu hướng gia tăng các vụ bắt giữ, xét xử và những bản án hà khắc đối với các nhà hoạt động trong 18 tháng qua là điều rất đáng lo ngại. Nếu trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, tôi sẽ tiếp tục vận động cho nhân quyền và tự do tôn giáo cũng như sự cần thiết có thêm tiến bộ trong đấu tranh chống nạn buôn người, đồng thời nhấn mạnh với cấp lãnh đạo của Việt Nam rằng những tiến bộ trong các vấn đề này tiếp tục là ưu tiên hàng đầu của Hoa Kỳ và có vai trò quan trọng để mối quan hệ đối tác giữa hai bên – và chính Việt Nam – đạt được tiềm năng tối đa.

Thứ tư, quan hệ giao lưu nhân dân. Mối quan hệ giữa nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân Việt Nam rất mạnh mẽ và ngày càng phát triển. Hơn 21.000 người Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ, đưa Việt Nam trở thành một trong sáu quốc gia có lượng du học sinh lớn nhất tại Hoa Kỳ. Những sinh viên này không chỉ xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai quốc gia mà còn đóng góp gần 700 triệu đô la cho nền kinh tế Hoa Kỳ vào năm 2015. Năm ngoái, hơn 80.000 người Việt Nam đã đến Hoa Kỳ, hỗ trợ việc làm tại Hoa Kỳ ở mọi bang, và hơn nửa triệu người Mỹ đã đến Việt Nam. Đại học Fulbright Việt Nam mới được thành lập và Chương trình Hòa bình ở Việt Nam sẽ tiếp tục làm sâu sắc hơn mối quan hệ này, qua đó đóng vai trò cầu nối cho tương lai chung tươi sáng của chúng ta.

Thứ năm, các vấn đề về nhân đạo và di sản chiến tranh. Tìm kiếm một cách đầy đủ nhất có thể những người Mỹ mất tích trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam tiếp tục là nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta và chúng ta không được phép dừng lại cho đến khi công việc đó hoàn thành. Việt Nam đã hỗ trợ rất nhiều cho những nỗ lực này trong nhiều thập kỷ qua. Kể từ năm 1993, Hoa Kỳ đã đóng góp hơn 103 triệu đô la để giảm thiểu các mối đe doạ kéo dài từ vật liệu chưa nổ. Chúng ta đã đầu tư gần 115 triệu đô la Mỹ để xử lý ô nhiễm dioxin ở Đà Nẵng, dự kiến ​​sẽ hoàn thành vào cuối năm nay và chúng ta đã cam kết sẽ làm nhiều hơn nữa. Sự hợp tác của chúng ta trong những vấn đề này tiếp tục xây dựng nền tảng lòng tin để mở rộng mối quan hệ của chúng ta.

Đây mới chỉ là khởi đầu. Ngoài những nội dung mà tôi đã đề cập, Việt Nam là một đối tác ngày càng quan trọng trong các thách thức khác của khu vực và toàn cầu, bao gồm bệnh dịch, buôn bán động thực vật hoang dã và ma túy, và tội phạm xuyên quốc gia. Với nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh và dân số trẻ và năng động có quan điểm rất tích cực về Hoa Kỳ, Việt Nam có tiềm năng trở thành một trong những đối tác mạnh nhất của chúng ta ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Nếu trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, tôi sẽ làm việc với đội ngũ nhân viên xuất sắc của Phái đoàn Ngoại giao Hoa Kỳ ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để tăng cường mối quan hệ đối tác của chúng ta với Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Tôi cũng sẽ chú trọng ưu tiên sự an toàn và phúc lợi của cán bộ Phái đoàn Ngoại giao, trong đó đảm bảo rằng họ có cơ sở vật chất phù hợp ở Việt Nam để thực hiện những công việc quan trọng của mình. Mục tiêu của chúng ta tiếp tục là thúc đẩy các lợi ích của Hoa Kỳ trên mọi lĩnh vực và hỗ trợ sự phát triển của một Việt Nam mạnh mẽ, thịnh vượng và độc lập, một Việt Nam góp phần bảo đảm an ninh quốc tế, tham gia vào thương mại cùng có lợi, và tôn trọng nhân quyền và pháp quyền.

Một lần nữa cảm ơn quý vị đã xem xét đề cử của tôi. Tôi mong chờ các câu hỏi từ quý vị.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
Bản dịch: