Bước tới nội dung

Bài phú cải lương hồi nước ta mới duy tân

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bài phú cải lương hồi nước ta mới duy tân
của Nguyễn Thượng Hiền

Anh em ơi! Anh em ơi!

Xoay vần cuộc thế; Khép mở cơ giời.

Nghĩ cho hết lẽ; Khôn mới ăn người.

Sóng cạnh tranh lai-láng dưới hoàn-cầu, người muốn nọ, kẻ muốn kia, không ai giống đâu, sống một nết, chết một tật; Đường giao-thiệp mở-mang trên đại-lục, khôn cũng nhiều, dại cũng lắm, trong đó thì biết, người ba đấng của ba loài.

Giống nòi chia sắc vàng, sắc trắng, sắc đỏ, sắc đen, con vua vua dấu, con chúa chúa yêu, ai nấy cũng là riêng bụng nghĩ; Công việc đủ nghề học, nghề cầy, nghề buôn; nghề thợ, của anh anh mang, của nàng nàng sách, ngồi không há chịu để tay quai.

Mật ít ruồi nhiều, nghĩ người ta đương ra sức đua tranh, khéo đâu đất bỏ hoang, của sẵn mang dâng, cây đổ còn toan đào đứt gốc, — Quít làm cam chịu, tại kẻ trước hóa bây giờ vất-vả, may thay giời mở lối, cơn mê chợt tỉnh, rượu ngon nay đã nếm qua mùi.

Bụng nghĩ hay việc làm mới hay, nhức tinh-thần đừng giữ mãi thói si, lừ-khừ như ông từ vào đền, trông chiều dễ ngán; Khi trước khác bây giờ lại khác, đổi ăn mặc đừng theo chi lối hủ, lượt-thượt như lễ sinh mất vợ, ngó bộ buồn cười.

Chẳng thầy sao mày làm nên, kìa cao-đẳng, kìa sơ-giáo, sự học-hành một bụng khuyên răn, sao cho sáng suốt; Có tiền mua tiên cũng được, nào chung-châu, nào biên-tỉnh, việc bán buôn trăm đường mở rộng, chớ ngại xa-xôi

Thợ may ăn dẻ, thợ vẽ ăn hồ, sao bằng người giữ bụng tín ngay, lợi lớn là hơn, của nhặt thấm chi đồ tẹp-nhẹp; Đi giác sắm bầu, đi câu sắm rỏ, huống chi sự học nghề chế tạo, đồ làm phải đủ, tay không chưa dễ tỏ mười mươi.

Nói truyện sinh nhai, bực làm trên trước phải dè-dùng, chồng ăn chả, vợ ăn nem, kẻ dưới tội chi không phi-phá; Xem trong đoàn-thể, buổi mới cốt phải cho chung bụng, ông nói gà, bà nói vịt, việc chi thì để bỏ lai-nhai.

Có khôn thì vẽ cho nhau, chớ nghĩ rằng ta dối, mà rước ma cũ, nạt ma mới; Muốn hay phải giữ cho chọn, đừng chơi những kẻ hư, mà dở lợn lành chữa lợn toi.

Ăn quả nhớ kẻ giồng cây, mấy nghìn năm đức Thuấn ân Nghiêu, mang nặng trên vai, báo-đáp sao cho đền được nguyện; Có bột mới gột nên hồ, ba vạn quyển rừng Âu bể Á, in sâu trong não, văn-minh rồi mới dựng ra tài.

Đạo tri-giao cốt phải chọn người, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng; Đường cư-sử sao cho biết lối, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

Có chồng như rồng có vây. trăm năm vẹn đạo sướng-tùy, án ngọc ngang mày, lẽ phải giữ thường ai chẳng nể; Con có cha như nhà có nóc, một mực trăm bề hiếu-dưỡng, vẻ ban quanh gối, lòng trên trông xuống cũng thêm vui.

Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo, dám khuyên ai biết nghĩ biết lo, đứng lại vững chân thì hẳn được; Đương đi đường quang bước quàng đường rậm, kìa những kẻ vẽ khôn vẽ khéo, làm ra lỡ bước sợ không rồi.

Đói cho sạch, rách cho thơm, há như ai đục nước béo cò, chẳng nghĩ con cái mình, nặng tay rìu búa; Ăn có nhai, nói có nghĩ, chớ toan sự mù giời bắt két, gặp khi thời vận thế, lên mặt cân đai.

Bước công danh vui lắm cũng lo nhiều, trong lưng đã chắc hơn ai, đơm đó ngọn che, đừng háo-hức chi nghề kiếm cá; Đường danh lợi vinh kia mà nhục đó, có miếng thì mang lấy tiếng, múa tay trong bị, khéo mê-man chi sự ăn sôi.

Thảm đến ai vạch lá tìm sâu, được lòng đất mất lòng đò, nghĩ sao cho phải; Hay chi việc dán xành ra mỡ, buộc cổ mèo, cheo cổ chó, đến thế thì thôi.

Xanh vỏ đỏ lòng chẳng nghĩ chi áo chúa cơm vua, ở chùa đốt chùa, kể nghĩa lý chi đồ láo-lấc; Chôn rau cắt rốn, ai chẳng có quê cha đất tổ, ngồi thúng cất thúng, có thủy chung mới là kẻ hẳn-hoi.

Một cột làm chẳng nên rừng, phải đùm nhau cho nên việc tốt tươi, ăn cây nào rào cây nấy; Hai thưng cũng vào một đấu, hễ biết tính sợ chi cơn túng tíu, ăn bữa hôm, lo bữa mai.

Lối dụng tài đã bỏ hết hư khoa, thôi những anh hay thi, hay phú, hay kinh nghĩa, hay sách văn, đứt đuôi nòng nọc Đường tiến hóa cốt tìm ra thực hiệu, kìa những kẻ nào mũ, nào giầy, nào ba toong, nào ô máy, tốt mã dẻ cùi.

Dậu đổ bìm leo, cũng tại mình còn trách chi ai, mơ màng thác ngủ sống say, gương hủ-tục kia đà cheo áp mặt; Tre già măng mọc, lẫn hơn trước còn mong ở lại, hâm-hở tìm khôn học khéo, chuông tự do dạy đã đánh vang tai.

Nghĩ cho xa sự thế cũng buồn cười, có khác chi đâu, tò vò nuôi con nhện; Đứng chưa vững sức, mình còn phải nhón, chớ vội rằng được, châu chấu đá ông voi.

Bao giờ to lớn hãng hay, mèo nhỏ bắt chuột con, sức ấy xem ra đừng có gượng; Mấy kẻ ngọt ngon chửa vững, tiền thực mua của giả, sự kia xét kỹ kẻo mà sai.

Giầu làm kép, hẹp làm đơn, cơ-cực dường nào, liệu thế đắn-đo là kẻ phải; Nhặt che mưa, thưa che gió, phong-trần hội ấy, ra tay soay-sửa dáng tài-giai.

Chớ như ai há miệng chờ ho, có cấy có trông, có giồng có ăn, ra sức sửa-sang, nền hưng-vượng có khi xây vững móng; Suy mới biết đứt tay hay thuốc, học ăn, học nói, học gói, học mở, nhanh chân mau bước, bể trầm-luân cũng vượt qua vời.

Thấy ai mà ngay thực mới nên tin, đi ra hỏi già. về nhà hỏi trẻ; Nghĩ mình có u-mê chi chẳng biết, miếng ngon nhớ lâu, nhời đau nhớ đời.

Việc hồi thiên há một chốc xong ngay, bụng nghĩ cho sâu, đừng láo nháo như cháo mấy cơm, sợ khi nát bét; Lòng ái quốc dẫu trăm năm ghi đó, tay cầm cho vững, kẻo lanh tranh như hành không muối, chưa dễ ăn ai.

Xin đừng dương mắt trông nhau, lắm sãi không ai đóng cửa chùa, phong-hội ấy, nước non này, cũng lo toan cho hết sức; Thôi đừng già mồm nói khoác, mười voi không được một bát sáo, chí khí to, công việc lớn, sao cho chắc chắn được như lời.

Cuộc Viêm-Bang tuy dâu bể lắm phen, đông có mây, tây có sao, muôn sức phù-trì, gặp lúc mở-mang ra cũng dễ; Giống Hồng Lạc cùng anh em một họ, sống ở làng, sang ở nước, mấy câu gắn bó, khuyên ai thong-thả nghĩ mà coi.

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1930, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.