Bước tới nội dung

Biên dịch:Đông Đô sự lược/Quyển 130

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Đông Đô sự lược  (1186)  của Vương Xứng, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
quyển 130 Giao Chỉ

Khâm định tứ khố toàn thư

Đông Đô sự lược 》 quyển 130 Tống Vương Xứng soạn phụ lục 8.

Giao Chỉ (交趾) vốn là đất Nam Việt, Hán Vũ Đế bình định Nam Việt, chia đất ấy thành các quận: Đam Nhĩ (儋耳), Chu Nhai (朱厓), Nam Hải (南海), Thương Ngô (蒼梧), Uất Lâm (鬱林), Hợp Phố (合浦), Giao Chỉ (交趾), Cửu Chân (九真), Nhật Nam (日南), tất cả là 9 quận, đặt Giao Chỉ Thứ sử để cai quản.

Hậu Hán đặt Giao Châu. Tấn, Tống, Tề theo đó, lại đặt làm Giao Chỉ quận. Lương, Trần cũng theo đó. Nhà Tùy bình định nhà Trần (Trung Quốc), bỏ quận đặt châu, Tùy Dạng Đế bỏ châu làm quận.

Nhà Đường đổi Giao Châu Tổng quản, lại đổi làm An Nam Đô hộ.

Thời Ngũ Đại, có Khúc Thừa Mỹ (曲承美), làm thổ hào chiếm giữ đất ấy, Lưu Cung (劉龔) sai tướng đánh bắt Mỹ, sáp nhập đất ấy. Sau có Dương Diên Nghệ (楊延藝) nhận tước mệnh của họ Lưu, bị nha tướng là Kiều Công Tiễn (皎公羡) giết. Tướng cũ của Diên Nghệ là Ngô Quyền (吳權) đánh Giao Châu, giết Công Tiễn, rồi chiếm giữ đất ấy. Quyền chết, con là Xương Ngập (昌岌) lên thay, Xương Ngập chết, em là Xương Văn (昌濬) lên thay. Xương Văn chết, nha tướng tranh nhau lập, trong nước đại loạn.

Ban đầu, Dương Diên Nghệ sai nha tướng là Đinh Công Trứ (丁公著) tạm giữ chức Hoan Châu Thứ sử, con là Bộ Lĩnh (部領) kế nhiệm. Công Trứ chết, Bộ Lĩnh nối ngôi. Bộ Lĩnh cùng con là Liễn (璉) đem binh dẹp yên trong nước, dân chúng tôn làm chủ, xưng là Đại Thắng Vương, phong con là Liễn làm Tiết độ sứ, tất cả 3 năm. Liễn kế nhiệm cha, Tống Thái Tổ đã hạ Lĩnh Nam, Liễn sai sứ nội phụ, được phong làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, An Nam Đô hộ. Năm Khai Bảo thứ 8 (975), phong Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương.

Đầu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976), Bộ Lĩnh và Liễn đều chết, em là Tuyền (璿) còn nhỏ, đại tướng Lê Hoàn (黎完) giam họ Đinh, thay quyền nắm giữ. Tống Thái Tông nổi giận, sai Lan Châu Đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng (孫全興), Bát Tác sứ Trương Tuấn (張濬), Tả Giám môn vệ tướng quân Thôi Lượng (崔亮) đem binh đánh. Lê Hoàn thay mặt Đinh Tuyền dâng biểu xin kế vị anh, không được trả lời. Khi ấy, quân triều đình đại phá quân Giao Chỉ, chém hơn 10.000 thủ cấp, lại phá quân ở cửa sông Bạch Đằng, Chuyển vận sứ Hầu Nhân Bảo (侯仁寳) dẫn tiền quân tiến trước, bị Giao Chỉ giết, bèn lui quân, Tôn Toàn Hưng cũng bị xử tội, Đinh Tuyền sai sứ tạ tội.

Năm thứ 8 (983), Lê Hoàn phế Đinh Tuyền, tự xưng là Giao Châu Tam sứ lưu hậu, sai sứ xin mệnh, Thái Tông bèn vỗ về, dụ rằng: Họ Đinh đã ba đời kế tục, trẫm muốn cho Tuyền làm thống soái, ngươi làm phụ tá, nếu Tuyền không có tài, lại còn trẻ con, thì nên sai mẹ con và thân thuộc đến quy thuận, đợi khi vào triều, sẽ giao tiết mao cho ngươi, hai đường ấy, ngươi nên chọn một. Khi ấy, Lê Hoàn đã chiếm giữ đất, không nghe lệnh.

Niên hiệu Ung Hi (984–987), dâng biểu xin chính thức lãnh tiết trấn, Thái Tông bèn phong làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, Nam An Đô hộ, sai con là Minh Đề (明提) vào cống. Năm Cảnh Đức thứ 2 (1005), Hoàn mất, con là Long Việt (龍鉞) lên thay, em là Long Diên (龍延)[1] giết anh tự lập, các con tranh nhau lập, trong nước đại loạn, quần thần nhiều người xin đánh, Tống Chân Tông nói: chưa kịp điếu phúng mà đã đánh kẻ có tang, há phải việc của vương giả? Bèn sai biên thần vỗ yên. Tuần hải An phủ sứ Thiệu Diệp (邵曄) dâng bản đồ thủy lục từ Ung Châu (邕州) đến Giao Châu, Chân Tông nói: tổ tông mở cõi đến thế, chỉ nên giữ vững, cần gì làm khổ dân để tham đất vô dụng? Nếu trong cõi có kẻ phản, thì không thể không trừ.

Chẳng bao lâu, Long Diên dâng biểu xin mệnh, lại sai em là Minh Xưởng (明昶) đến, bèn phong làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, ban tên cho Long Diên là Chí Trung (至忠). Chí Trung tàn bạo, đại tướng Lý Công Uẩn (李公藴) thường ngầm giúp, được đặc biệt tin dùng, bèn cho mạo họ Lê[2]. Năm Đại Trung Tường Phù thứ 2 (1009), Chí Trung chết, em là Minh Đề và Minh Xưởng tranh nhau lập, Công Uẩn phát binh giết cả hai, tự xưng lưu hậu, xin mệnh với triều đình. Chân Tông nói: ban đầu Lê Hoàn cướp Đinh Tuyền tự lập, Công Uẩn cũng vậy, nhưng man di há có thể dùng lễ nghĩa mà trách? Bèn phong Công Uẩn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, An Nam Đô hộ, Giao Chỉ quận vương.

Công Uẩn nhân bắt giặc Địch Lạo (狄獠) ở Như Hồng trại, chiếu truy hoàn người bị bắt, nhân đó răn bảo. Năm Thiên Hy thứ 1 (1017), phong Nam Bình vương. Thời Thiên Thánh (1023–1031), sai con cháu đem quân đi đánh, chiếu phát Động Đinh bắt giặc, chẳng bao lâu thì mất, thọ 44 tuổi. Con là Đức Chính (徳政)[3] tự xưng lưu hậu, đến báo tang, được phong Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, An Nam Đô hộ, Giao Chỉ quận vương.

Năm Cảnh Hựu thứ 3 (1036), đánh các châu Ích Lăng (㤙陵) thuộc Ung Châu và các động, cướp trâu ngựa, đốt nhà cửa rồi rút, chiếu trách hỏi, lệnh bắt thủ lĩnh trị tội. Năm Bảo Nguyên thứ 1 (1038), tiến phong Nam Bình vương. Nùng Trí Cao (儂智髙) phản, Lý Càn Đức đem 20.000 quân giúp triều đình đánh Trí Cao, chiếu lui quân và ban thưởng hậu hĩnh. Sau mất, con là Nhật Tôn (日尊)[4] sai sứ báo tang, được phong Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, An Nam Đô hộ, Giao Chỉ quận vương. Năm Gia Hựu thứ 3 (1058) vào cống, dâng dị thú gọi là lân, Khu mật sứ Điền Huống (田況) nói: không phải lân, chỉ là dị thú, bèn tạ đáp.

Tống Anh Tông lên ngôi, gia phong Đồng Bình chương sự. Thần Tông lên ngôi, tiến phong Nam Bình vương, gia Khai phủ Nghi đồng tam ti. Trị vì 18 năm thì mất, con là Càn Đức (乾徳)[5] nối ngôi, triều đình phong làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, An Nam Đô hộ, Giao Chỉ quận vương. Thẩm Khởi (沈起) làm Tri Quế Châu, nghĩ xằng bậy rằng triều đình có ý đánh chiếm Giao Chỉ, không thể hòa hiếu, bèn tập hợp thổ binh ở các động, lại cấm Giao Chỉ buôn bán với châu huyện, Giao Chỉ sinh lòng phản, mưu vào cướp Hy Ninh (𤋮寧).

Năm thứ 8 (1075), Càn Đức (乾徳) đại binh tiến đánh, liên tiếp hạ Khâm (欽), Liêm (亷) hai châu, rồi vây Ung Châu (邕州). Tri Ung Châu là Tô Giám (蘇緘) ngày đêm vất vả, binh sĩ chống giặc, trước sau bắn giết hơn 15.000 người, lòng dân trong thành càng vững nhưng viện binh không đến, bị vây 42 ngày thì thành thất thủ, Giám tử trận, ba châu chết không dưới 100.000 người.

Thần Tông (神宗) phong Triệu Tiết (趙禼) làm Chiêu thảo sứ, tổng lĩnh 9 tướng quân tiến đánh, lại phong Quách Quỳ (郭逵) làm Tuyên Châu sứ, Tiết làm phó. Quỳ đến Trường Sa (長沙), đốc thúc các đạo tiến binh phục Ung Châu, sai tướng đánh chiếm Vĩnh An Châu (永安州), các động đều đầu hàng, Quỳ đến Tư Minh Châu (思明州), sai Yến Đạt (燕逹) đánh Quảng Nguyên Châu (廣源州), hàng Quan sát sứ Lưu Kỷ (劉紀), quân đến sông Phú Lương (富良江), Giao Chỉ đem thuyền nghênh chiến, Quỳ phá tan, bắt được tướng giặc là Thái tử Hồng Chân (洪真), thế giặc suy yếu, Càn Đức dâng biểu xin hàng.

Khi ấy, Vương An Thạch (王安石) và Ngô Sung (吳充) tranh luận trước triều về việc Giao Chỉ, An Thạch cho rằng có thể chiếm, Sung nói: chiếm được cũng vô ích. Đến đây, Càn Đức quy thuận, Thần Tông chấp nhận.

Triết Tông (哲宗) lên ngôi, gia phong Đồng Bình chương sự. Thời Nguyên Hựu (元祐, 1086–1094), tiến phong Nam Bình vương. Càn Đức trải qua hai triều Triết Tông và Huy Tông (徽宗) chưa từng làm trái. Năm đầu niên hiệu Tuyên Hòa (宣和元年, 1119), gia phong Thủ Tư Không. Đến đầu niên hiệu Tĩnh Khang (靖康初, 1126), Càn Đức vẫn khỏe mạnh, hai năm sau thì mất, Dương Hoán (楊換)[6] lên thay.

Thần Vương Xứng tâu rằng:"Từ khi Công Uẩn (公藴) nắm quyền đến nay, Trung Quốc luôn dùng lòng thành để vỗ về, ý hòa nhã đã đến mức tận cùng, cho nên mới khiến loài ếch yên thân nơi đáy giếng, kiến tụ họp trong hang. Thế nhưng Lê Hoàn (黎全)[7] cướp ngôi Đinh Tuyền (丁璿), truyền được hai đời thì vội diệt vong; còn Công Uẩn cướp ngôi Đề Xưởng (提昶)[8], trải qua nhiều đời mà vẫn chưa mất, há chẳng phải là may mắn lắm sao?"

Đông Đô sự lược (東都事略), quyển 130.

   




Chú thích

  1. Lê Long Đĩnh 黎龍鋌.
  2. Ý nói Lê Long Đĩnh ban họ Lê cho Lý Công Uẩn.
  3. Lý Thái Tông.
  4. Lý Thánh Tông.
  5. Lý Nhân Tông.
  6. Lý Thần Tông.
  7. Nguyên văn chép sai thành Lê Toàn.
  8. Ý nói Lý Công Uẩn giết anh em Minh Đề, Minh Xưởng.



Nguồn bổ sung: