Bước tới nội dung

Biên dịch:Giao Châu ký

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Giao Châu ký  (nhà Tấn) 
của Lưu Hân Kỳ, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
Giao Châu ký (交洲記) Lĩnh Nam di thư bản (嶺南遺書本) của Lưu Hân Kỳ 劉欣期 (nhà Tấn), do Tăng Chiêu 曾釗 (nhà Thanh) sưu tầm.

Giao Châu Ký – Quyển 1

[sửa]
  • Núi Khang Đầu 糠頭 ở cửa biển Hợp Phố 合浦, truyền rằng Việt Vương giã gạo ở đây, tích tụ thành núi. (Ngự Lãm 829)
  • Có một hồ cách Hợp Lưu 合流 40 dặm về phía bắc, vào ngày âm, dân chúng bắt gặp thuyền đồng nổi lên mặt nước, còn có trâu nước trong hồ. (Sơ Học Ký 7)
Theo Thái Bình Hoàn Vũ Ký: ghi là Hợp Phố, khảo sát địa chí không có tên Hợp Lưu, nên ghi là Hợp Phố. Tuy nhiên, Hợp Bích Sự Loại cũng ghi là Hợp Lưu, chưa rõ chính xác.
  • Đào Nam Đường là nơi đi qua của đường Cửu Chân, cách châu 500 dặm. Mã Viện 馬援 tích đá làm đường thông ra biển, đến Tượng Phố 象浦, dựng cột làm ranh giới cực nam. (Ngự Lãm 74)
  • Núi Phù Thạch 浮石 đứng giữa biển, cao vài chục trượng, nổi trên mặt nước. (Nghệ Văn Loại Tụ 1)
Có một núi thần công khắc chạm như bắn cung, cách cửa Thạch Đường 100 bước, đêm thường nghe tiếng bắn. (Nghệ Văn Loại Tụ 8)
Theo Thái Bình Hoàn Vũ Ký: dẫn Giao Châu Ký nói núi Cư Phong 居風 phía nam tiếp giáp núi Xạ Bồng 射堋, theo đó thì núi ở huyện Cư Phong, lấy tên Xạ Bồng.
  • Núi Cư Phong cách quận 4 dặm, người Di theo Thái Thú Bùi Tường 裴庠 xin mua núi này, nói rằng có vàng. Không được phép, sau có một bà già đi ruộng thấy trâu vàng ra ăn, chặt được khóa mũi dài hơn một trượng. Người sau thường thấy trâu ra ban đêm, ánh sáng rực rỡ vài chục dặm. (Ngự Lãm 644)
Theo Lưu Chiêu – Tục Hán Chí chú 23: dẫn Giao Châu Ký nói ánh sáng rực rỡ 10 dặm, khác với vài chục dặm.
  • Một xương cánh tay ở phía đông Đàm Nhĩ 儋耳. (Ngự Lãm 369)
  • Người Giao Chỉ ở huyện Nam Định 南定, xương chân không có khớp, thân có lông, nằm thì phải có người đỡ mới đứng dậy được. (Quảng Vận 3)
  • Bà Triệu 趙嫗 (Triệu Ẩu) là con gái ở huyện Xa An 車安, Cửu Chân 九眞, ngực dài vài thước, không lấy chồng, vào núi tụ tập bọn cướp, tấn công quận. Thường mặc áo giáp vàng, chiến đấu, lui thì dựng màn, giao tiếp với trai trẻ, vài chục người hầu bên cạnh. Thứ sử Ngô Quận là Lục Doãn 陸允 (Lục Dận 陸胤) bình định. (Ngự Lãm 371)
Theo Xa An: nên dựa vào sách của Lê Tắc 黎崱 là Chí Lược (An Nam chí lược) ghi là Quân An 軍安. Tống Chí, Tùy Chí đều thuộc quận Cửu Chân. Áo giáp vàng, Thái Bình Ngự Lãm quyển 499 ghi là “giày vàng” 蹋踶, quyển 811 lại ghi là “áo vàng” 摛提, chưa rõ chính xác.
  • Phong tục thích đánh trống, đánh đàn, trẻ mục đồng ở đồng cỏ, cưỡi trâu hát bài ca “Liêu Liêu” 遼遼. (Ca Khúc nói về: sức mạnh của trâu, dụng cụ cày nhẹ nặng)
  • Những người hầu vỗ tay dưới ánh trăng và hát những bài hát nồng nàn để tạo nên những bài hát tuyệt đẹp. (Ngự Lãm 572)
  • Một năm tám lần nuôi tằm, kén xuất hiện ở Nhật Nam 日南. (Văn Tuyển – Lý Thiện chú 5)
Dâu có hai loại lớn nhỏ, dâu nhỏ trồng vào đầu xuân, cành lá sum suê, từ tháng 3 đến tháng 8 đều nuôi tằm. (Lê Tắc 黎崱 – An Nam Chí Lược 安南志畧 15)
  • Công Tào huyện Long Biên – Tả Phi 左飛 từng biến thành hổ, vài tháng sau trở lại làm quan. (Thủy Kinh Chú 37)
  • Tê giác (hủy 兕) xuất hiện ở Cửu Đức, có một sừng: dài hơn hai thước, hình dạng như cán roi ngựa. (Ngự Lãm 359)
  • Tê giác (tê 犀) ở huyện Cửu Đức, lông như lợn, móng có ba lớp, đầu như ngựa, có hai sừng: sừng trên mũi dài, sừng trên trán ngắn. (Nghệ Văn Loại Tụ 95)
  • Theo Chương Hoài Thái tử chú Hậu Hán Thư – Chương Đế Ký: có ba sừng, sừng trên mũi ngắn, sừng trên trán dài. Lê Tắc – An Nam Chí Lược lại nói: đầu có ba sừng, sừng trên mũi ngắn, sừng trên cổ dài – khác với Nghệ Văn Loại Tụ.
  • Phong mẫu 風母 xuất hiện ở huyện Cửu Đức, giống khỉ, thấy người thì xấu hổ, cúi đầu. Nếu bị đánh chết thì gió nổi lên và nó sống lại. (Nghệ Văn Loại Tụ 1)
  • Chuột tre 竹鼠 (con dúi) như chó con, ăn rễ tre, xuất hiện ở huyện Phong Khê. (Nghệ Văn Loại Tụ 95)
Theo Ngự Lãm 910: gọi là “chuột gió tre”, còn nghi ngờ.
  • Gà có tiếng gáy dài (trường minh kê 長鳴雞) xuất hiện ở Nhật Nam. (Ngự Lãm 918)
  • Chim công màu xanh, đuôi dài sáu bảy thước, có thể xòe múa, chân làm nhịp, xuất hiện ở các nơi phía nam dãy núi Lĩnh Nam. (Ngự Lãm 924)
  • Chim mỏ vàng, dài hơn một thước, người phương Nam dùng làm đồ đựng rượu. (Quảng Vận 1)
Theo Ngự Lãm 928: gọi là “chim mỏ vàng” 黄啄, dài hơn hai thước, đồ đựng rượu gọi là “chén rượu” 酒爵.
  • Thứ sử Đào Hoàng 陶璜 ngủ trưa, thấy một cô gái gối đầu lên tay mình, định đẩy ra thì bị móng tay cào, đau không chịu nổi, thả ra thì cô gái bay đi. (Ngự Lãm 370)
  • Huyện Vũ Lăng 武陵, tháng 9 mùa thu, cá hoàng biến thành chim cút. (Ngự Lãm 924)
  • Cá lăng 鯪魚 xuất hiện ở Hợp Phố, dài ba thước, lưng có giáp, hoa văn như ngọc, cứng chắc, có thể trang trí dao hoặc dùng làm giũa. (Sơ Học Ký 30)
Theo Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc – Hậu Tập quyển 40: “trang trí lưỡi dao”, Thái Bình Quảng Ký dẫn Giao Châu Ký cũng giống.
  • Trai lớn 大貝 ở Nhật Nam như chén rượu, trai nhỏ là răng trai 貝齒, giỏi chữa độc, đều có màu tím. (Nghệ Văn Loại Tụ 84)
  • Thái thú Cửu Chân – Đào Hoàng lập quận, xây thành trong hố đất, tìm thấy một vật màu trắng, giống như kén tằm, không đầu, dài vài chục trượng, to hơn mười vòng, mềm mại, không biết tên. Mổ bụng có thịt như mỡ lợn, nấu canh rất thơm. Hoàng ăn một bát, ba quân ăn hết. (Ngự Lãm 861)
  • Thời Thái Hòa, có người đến động Vũ Lĩnh, trong động có con kiến rất lớn. (Ngự Lãm 947)
  • Đại Ngô Công (con rết lớn) xuất hiện ở huyện Từ Văn, lấy da làm trống. (Ngự Lãm 946)
  • Cách Hợp Phố 100 dặm về phía đông có một cây linh sam (杉樹), lá rụng theo gió bay vào thành Lạc Dương. Thời Hán, người giỏi xem tướng nói đây là điềm lành, sẽ xuất hiện vua (thay thế vua Hán). Sai 1.000 người đốn cây, nhiều người chết, 300 người ngồi trên gốc cây ăn uống. (Nghệ Văn Loại Tụ 89)
Theo Ngự Lãm 957: ghi là 200 dặm.
  • Cây dừa (椰 da) mọc ở Nam Hải, giống cây cọ biển, quả gọi là dừa, to như cái bát, vỏ thô như quả đậu khấu lớn, bên trong có nước như rượu, uống không say. (Đại Quan Bản Thảo 14)
  • Cây câu (拘櫞 câu duyên, cây thanh yên) giống cây bưởi, hạt nhỏ. (Ngự Lãm 972)
  • Quả đa cảm 多感子 màu vàng, chu vi một tấc. Quả mía (?) (蔗子 giá tử) như quả dưa, cũng giống bưởi. Quả mễ 彌 tròn, nhỏ, vị ban đầu đắng, sau ngọt – đều là quả ngọt. (Tề Dân Yếu Thuật 10)
  • Cây đô câu 都句 giống cây cọ, bên trong có bột như bột mì, có thể ăn. (Tề Dân Yếu Thuật 10)
  • Cây quân thiên 君遷, quả như vú ngựa. (Ngự Lãm 960)
Theo Đại Quan Bản Thảo quyển 22: quả có sữa ngọt, thơm ngon, màu vàng.
Theo Thái Tuyền Thông Chí quyển 23: cây quân thiên nhỏ như chuối ngọt, quả như vú ngựa.
  • Cây hoắc hương 霍香 giống cây tô hợp 蘇合. (Nghệ Văn Loại Tụ 81)
  • Cây đậu khấu 豆蔻 giống cây viên 杬樹, vị cay, có thể ăn với cau, chữa răng gãy. (Ngự Lãm 971)
  • Cây hàm thủy đằng 含水藤 mọc ở Lĩnh Nam và các thung lũng ven biển, hình như cây sắn, lá giống cây câu kỷ, mọc ven đường. Người đi đường thiếu nước thì ăn cây này, nên gọi là “hàm thủy đằng”. (Đại Quan Bản Thảo 12)
  • Vàng có hoa xuất hiện ở Châu Nhai, gọi là “vàng hoa”, người khai thác. Ở núi Tuyết phía nam Tân Xương, có người từng tìm thấy cục vàng như cái đấu, bị lạc đường, đặt lại chỗ cũ thì mới ra được. (Ngự Lãm 811)
  • Vàng hoa ở Châu Nhai, gọi là “vàng có hoa”, người khai thác. (Văn Tuyển – Lý Thiện chú 5)

Giao Châu Ký – Quyển 2

[sửa]
  • Chu Nhai 朱崖 nằm giữa biển lớn, ở phía ngoài cực Nam. (Ngự Lãm 172)
  • Cửu Chân 九眞, cách quận ba dặm, có núi Trân 珍山. Trên núi có miếu thờ thần đá. Gặp khi trời hạn hán nghiêm trọng, quan đứng đầu (hai nghìn thạch) đích thân đến dùng nước rửa đá, lập tức có mây mưa đổ xuống. (Thái Bình Hoàn Vũ Ký 171)
  • Trong biển có núi Phù Thạch 浮石山, cao vài chục trượng, cách doanh trại Vĩnh Bình 永平營 hơn trăm dặm, nổi trên mặt nước. Xưa Lý Tốn 李遜 chinh phạt Chu Nhai, muốn xác thực thực hư, đã buộc dây dài vào chân núi, xuyên qua hang động. (Ngự Lãm 49)
  • Có núi Phù Thạch trong biển, nhẹ rỗng, có thể dùng để mài chân. Nấu nước từ đó uống có thể giải khát. (Ngự Lãm 52)
  • Núi Cư Phong phía nam tiếp giáp với núi Xạ Bồng. (Thái Bình Hoàn Vũ Ký 171)
  • Núi Phong 風山 nằm trong quận Cửu Chân, cửa gió nằm trên đỉnh núi, nơi đó thường xuyên có gió. (Sự Loại Phú 2)
Theo Lưu Chiêu – Tục Hán Chí chú: Núi Cư Phong có cửa gió, thường xuyên có gió. Dựa vào đây, núi Phong trên có thể thiếu chữ “Cư”. Cư Phong là tên huyện thuộc quận Cửu Chân.
  • Cách Hợp Phố 80 dặm có đảo Vi Chu 圍洲, chu vi trăm dặm. Phía tây quận Cửu Chân có sông Nhược 弱水, lông và lông vũ đều chìm, rộng bảy tám dặm, nhìn thấy người cưỡi ngựa bên cạnh nhưng không thể qua được. (Thái Bình Hoàn Vũ Ký 171)
  • Phía tây huyện Long Biên có núi Tiên, dài vài trăm dặm. (Lưu Chiêu – Tục Hán Chí chú 23)
  • Lư Dung có bãi vàng. (Lưu Chiêu – Tục Hán Chí chú 23)
  • Sông Từ Liêm 慈廉江: Xưa có Lý Tổ Nhân 李祖仁 sống ở đây, anh em mười người đều hiếu thảo, nhường nhịn, nên đặt tên sông. (Ngự Lãm 65)
  • Vua Ba Tư 波斯王 dùng vòng vàng để cầu hôn công chúa của vua Tư Điều 斯調王. (Ngự Lãm 718)
  • Dân Chu Ngô 朱吾 sống ven biển, không ăn gạo, chỉ dựa vào cá. (Lưu Chiêu – Tục Hán Chí chú 23)
  • Cửu Chân có một hồ, cách Hợp Phố 40 dặm. Vào ngày mưa, dân chúng thấy có thuyền đồng nổi lên từ trong nước, lại có một con bò xuất hiện trong hồ. Dùng gà và rượu làm lễ cúng thì bắt được nhiều cá, nếu không cúng thì chỉ bắt được phân bò. (Thái Bình Hoàn Vũ Ký 171)
  • Người Việt đúc thuyền đồng, khi thủy triều rút thì thấy. (Lưu Chiêu – Tục Hán Chí chú 23)
  • Chim phỉ thúy 翡翠 xuất hiện ở Cửu Chân, đầu đen, bụng dưới đỏ, màu xanh lam, giống chim trĩ. (Ngự Lãm 924)
  • Chim công thân xanh, đuôi dài sáu bảy thước, có thể xòe múa, chân làm nhịp, xuất hiện ở các nơi. (Hoàng Thái Tuyền – Quảng Đông Chí quyển 24)
  • Núi Khang Đầu ở Hợp Phố có một con nai, trên trán mang một dây leo, bốn nhánh thẳng lên, mỗi nhánh dài hơn một trượng. (Thái Bình Quảng Ký 443)
  • Cửa Hợp Phố có một con nai, trên trán mang một dây leo, ba bốn nhánh, dài khoảng một sải. Thợ săn thấy nhưng không dám bắn. (Hoàng Thái Tuyền – Quảng Đông Chí 24)
Theo Ngự Lãm 906: ghi là “có bụi cây, giống như nai của Bàng Gia Đột”, chưa rõ thực hư.
  • Câu Lậu 茍漏 có trâu nước ngầm 潛水牛, khi lên bờ thì sừng mềm, khi xuống nước thì sừng cứng lại. (Lưu Chiêu – Tục Hán Chí chú 23)
Theo An Nam Chí Lược: huyện Câu Lậu có trâu nước ngầm, khi lên bờ thì sừng mềm, khi xuống nước thì sừng cứng lại – có chút khác biệt.
  • Cá sấu thường lên bãi cát, trứng to như trứng ngỗng, có thể ăn được. (Ngự Lãm 938)
  • Huyện Phong Khê 封谿, Giao Chỉ có đê phòng Long Môn, nước sâu trăm trượng, cá lớn lên đến cửa này hóa thành rồng, không thể qua, phơi mang, chấm trán, máu chảy, nước này luôn như hồ đỏ. (Nhĩ Nhã Dực 28, Lưu Chiêu chú Tục Hán Chí 23)
  • Tôm hùm giống rùa, đầu như đầu rùa, thân như thân ba ba, đuôi như đuôi tôm, màu sắc sặc sỡ như gấm, to như cái nón, bốn chân có râu, không có móng, phía trước có hạt đen có thể trang trí. (Hoàng Thái Tuyền – Quảng Đông Chí 24)
  • Phòng đá (石室 thạch thất) thần bí ở Vi Châu, Hợp Phố có một phòng đá linh thiêng, bên trong có tảng đá hình bầu, tựa vào đó là cây gậy gỗ lựu, nơi thợ mò ngọc thường đến cúng tế. (《太平御覽》710)
  • Gối đá đỏ có màu đỏ, có thể dùng làm thuyền hoặc làm giường. (《太平御覽》960)
  • Cây Cổ Độ không ra hoa, trái đỏ mọc từ vỏ cây, to như quả lựu, ăn được, bên trong có hạt như bồ đề, nếu không nấu trong vài ngày sẽ hóa thành côn trùng có cánh bay ra, rất đen. (《齊民要術》10)
  • Cây long nhãn cao năm sáu trượng, quả nhỏ, hình dáng giống quả vải. (《太平御覽》973)
  • Cây Bạch Duyên cao một trượng, quả có vị ngọt, ngon hơn hồ đào. (《齊民要術》10)
  • Cây dừa có nước ngọt, khi cắt hoa có thể dùng ống tre hứng lấy nước để làm rượu, uống vào cũng gây say (cây thốt nốt?). (《太平御覽》972)
Chú:* Theo 《齊民要術》 chép là “hứng lấy nước”, có thể thiếu chữ “lấy”.
  • Cây Mật Hương 蜜香樹 giống cây trầm hương, không khác gì, có tác dụng trừ tà, xua đuổi ma quỷ và khí độc, trấn an tâm thần, được trồng ở các núi vùng Nam Hải, sau năm sáu năm sẽ có hương thơm. (《大觀本草》12)
  • Đậu gạo 米豆 xuất xứ từ Từ Văn, hạt đẹp giống đậu đen, cành lá giống cây liễu, gieo một lần có thể thu hoạch trong vài năm. (《廣東志》23)
Chú:* 《齊民要術》 chép là “mộc đậu” 木豆.
  • Cây Quỷ Mục 鬼目樹 giống cây táo lê, lá như lá dâu, vỏ trắng, cây cao lớn như cây mộc qua nhưng nhỏ hơn, thân nghiêng lệch không ngay thẳng, vị chua, chín vào tháng Chín; lại có loại cỏ gọi là “cỏ Mí Tử” cũng giống như vậy, dùng làm bột, vì hình dáng giống cây Quỷ Mục. (《太平御覽》974)
  • Dây chứa nước khi chẻ ra sẽ có nước, người đi đường dùng để giải khát. (《齊民要術》10)
  • Cây Phù Lưu 扶留 có ba loại: một loại gọi là Hoạch Phù Lưu, rễ thơm ngon; một loại gọi là Nam Phù Lưu, lá xanh, vị cay; một loại gọi là Phù Lưu Đằng, vị cũng cay. (《齊民要術》10)

Phụ chú

[sửa]
  • Núi cao ở huyện Long Biên là nơi phát nguyên của sông Kinh 涇水, nay thuộc Giao Châu. (《初學記》6, dẫn theo 《劉澄之交州記》)
  • Điện triều kiến của Triệu Đà được ông xây dựng để làm lễ triều kiến thiên tử. (《太平寰宇記》157, dẫn theo 《姚文咸交州記》)
 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1930, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công-Chia sẻ tương tự 4.0 Quốc tế, cho phép sử dụng, phân phối, và tạo tác phẩm phái sinh một cách tự do, miễn là không được thay đổi giấy phép và ghi chú rõ ràng, cùng với việc ghi công tác giả gốc — nếu bạn thay đổi, chuyển đổi hoặc tạo tác phẩm phái sinh dựa trên tác phẩm này, bạn chỉ có thể phân phối tác phẩm phái sinh theo cùng giấy phép với giấy phép này.

 

Tác phẩm này được phát hành theo các điều khoản của Giấy phép Tài liệu Tự do GNU.


Điều khoản sử dụng của Wikimedia Foundation yêu cầu văn bản được cấp phép theo GFDL được nhập sau tháng 11 năm 2008 cũng phải cấp phép kép với một giấy phép tương thích khác. "Nội dung chỉ khả dụng trong GFDL không được phép" (§7.4). Điều này không áp dụng cho phương tiện phi văn bản.