Bước tới nội dung

Biên dịch:Lĩnh Ngoại đại đáp/Quyển 03

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Lĩnh Ngoại đại đáp  (nhà Tống)  của Chu Khứ Phi, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
Quyển 03

Cửa ải nước ngoài (phần hạ)

[sửa]

Đại Tần Quốc 大秦國

[sửa]

Đại Thực Chư Quốc 大食諸國

[sửa]

Mộc Lan Bì Quốc 木蘭皮國

[sửa]

Tây Thiên Chư Quốc 西天諸國

[sửa]

Các nước phương Tây phần lớn đều gọi tên là “Tây Thiên 西天”, tổng cộng có vài trăm nước. Nổi tiếng nhất là Vương Xá thành 王舍城 (Rajgir, Magadha), nước Thiên Trúc 天竺國, Trung Ấn Độ 中印度, vì là nơi sinh ra Phật giáo nên danh tiếng rất lớn.

Nghe truyền rằng phía đông vùng này có Hắc Thủy 黑水, sông Ô 淤河, biển lớn, vượt qua phía đông thì đến các vùng Tây Vực 西域, Thổ Phồn 吐蕃, Đại Lý 大理, Giao Chỉ 交阯.

Phía tây vùng này có biển Đông Đại Thực 東大食海, vượt qua phía tây là các nước Đại Thực 大食.

Phía nam có một đảo gọi là nước Tế Lan 細蘭國 (Sri Lanka), biển cũng gọi là Tế Lan hải 細蘭海.

Xưa Trương Khiên 張騫 đi sứ Đại Hạ 大夏, nghe nói nước Thân Độc 身毒 ở phía đông nam Đại Hạ 1.000 dặm. Tôi nghe từ nước Đại Lý đến Vương Xá thành cũng không quá 40 chặng.

Xét sách "Hoàng Hoa tứ đạt ký 皇華四達記" của Giả Đam 賈耽 chép: “Từ An Nam có thể đi thông đến Thiên Trúc.” Lại như Bồ Đề Đạt Ma 達摩 từng vượt biển đến Phiên Ngung 番禺, cho thấy đường biển này thông suốt là điều rõ ràng.

Tây Thiên Nam Ni Hoa La Quốc 西天南尼華囉國

[sửa]

Đông Nam Hải Thượng Chư Tạp Quốc 東南海上諸雜國

[sửa]

Côn Lôn Tằng Kỳ Quốc 崑崙層期國

[sửa]

Ba Tư Quốc 波斯國

[sửa]

Người Đản 蜑蠻

[sửa]

Lấy thuyền làm nhà, xem nước như đất, sống trôi nổi trên sông biển là người Đản.

Người Đản Khâm có ba loại: một là Ngư Đản, giỏi thả lưới câu cá; hai là Hào Đản, giỏi lặn biển lấy hàu; ba là Mộc Đản, giỏi đốn núi lấy gỗ.

Người Đản rất tham, áo quần vá víu. Có được một nắm gạo thì cả nhà cùng ăn. Vợ chồng sống dưới mái thuyền ngắn, sinh con rất nhiều, một thuyền không dưới 10 đứa. Trẻ con biết bò, mẹ dùng vải mềm buộc sau lưng, vẫn chèo thuyền như thường. Trẻ biết bò thì buộc dây dài vào lưng, cuối dây buộc khúc gỗ ngắn, nếu rơi xuống nước thì kéo dây vớt lên. Trẻ biết đi thì đi lại trên mui thuyền, không hề sợ hãi. Biết đi là đã biết nổi lặn. Thuyền Đản đậu bờ, bọn trẻ tụ tập chơi trên cát, đông hè không mặc gì, giống như rái cá.

Cuộc sống trôi nổi của người Đản tưởng như phóng túng không thể thuần phục, nhưng vẫn có người cai quản, có ranh giới, có việc phục dịch cho quan, từ đó biết không thể thoát khỏi trời đất. Quảng Châu có một loại Đản tên là Lư Đình (盧停), giỏi thủy chiến.

Tam Phục Đà 三伏馱

[sửa]

Phía nam Giao Chỉ 交阯 có ngọn núi gọi là Bá Lưu 播流, bao quanh mấy trăm dặm, như một vòng sắt lớn, không thể trèo lên được. Bên trong toàn là ruộng tốt, chỉ có một lối nhỏ để vào. Có một giống người cư trú ở đó, Giao Chỉ không thể khuất phục, gọi là Tam Phục Đà 三伏馱.

An Nam nhiều lần muốn diệt, nhưng người ở đó giữ hiểm yếu, trăm phương ngàn kế cũng không thể vào. Tam Phục Đà tự nói: “Dù An Nam có binh mạnh, ta cũng có lúa ăn.” Ý là không thể bị tiêu diệt vậy.

Người Dao 猺人

[sửa]

Người Dao 猺人, tên gọi bắt nguồn từ việc họ từng làm lao dịch cho Trung Quốc. Phủ Tĩnh Giang 靜江 có năm huyện giáp ranh với người Dao là Hưng An 興安, Linh Xuyên 靈川, Lâm Quế 臨桂, Nghĩa Ninh 義寧, Cổ huyện 古縣.

Người Dao có nhiều tụ cư, mạnh nhất là nhóm La Mạn 羅曼 và Ma Viên 麻園. Các nhóm khác gồm Hoàng Sa 黃沙, Giáp Thạch 甲石, Lĩnh Đồn 嶺屯, Bao Giang 褒江, Tặng Cước 贈腳, Hoàng Thôn 黃村, Xích Thủy 赤水, Lam Tư 藍思, Cân Giang 巾江, Tủng Giang 竦江, Định Hoa 定花, Lãnh Thạch Khanh 冷石坑, Bạch Diện 白面, Hoàng Ý 黃意, Đại Lợi 大利, Tiểu Bình 小平, Than Đầu 灘頭, Đan Giang 丹江, Mi Giang 縻江, Thiểm Giang 閃江, Bả Giới 把界.

Càng sâu trong núi, người Dao càng đông, đều thuộc trại Tang Giang 桑江 của huyện Nghĩa Ninh. Người Dao búi tóc trước trán, đi chân đất mang vũ khí, có người cởi trần, có người mặc áo quấn, có người mặc áo quần vải hoa, hoặc đội khăn vải trắng. Tù trưởng thì đội khăn xanh, mặc áo bào tím. Phụ nữ mặc áo trên váy dưới, hoa văn sặc sỡ, riêng áo trên có hoa văn cực nhỏ, là điều họ quý trọng.

Đất toàn núi cao, nhưng sản vật lại nặng nề, không thể gánh vác, nên dùng túi lớn đựng đồ, lấy da làm dây đeo qua trán, vác sau lưng, cả gỗ đá lớn cũng vác được. Người Dao sống bằng nghề làm rẫy, lương thực là kê, đậu, khoai môn. Ruộng lúa rất ít, năm được mùa thì yên ổn trong hang ổ, nếu mất mùa thì tản ra quấy nhiễu.

Đặc sản có ván thông, thạch trơn, sáp ong, trầm Linh Lăng 零陵香, gỗ yên chi 燕脂木. Trong năm huyện biên giới của Tĩnh Giang, chỉ quan huyện Hưng An và Nghĩa Ninh khi mãn nhiệm mới được thưởng biên công.

Tây Nam Di 西南夷

[sửa]

Năm họ phiên bang ở tây nam là Long 龍, La 羅, Phương 方, Thạch 石, Trương 張, từ xưa được phép vào kinh triều cống. Long, La, Phương, Thạch vào từ Tuyên Châu 宣州, Trương vào từ Ung Châu 邕州. Có khi ba năm, có khi bốn năm hoặc năm năm một lần, tổng số người của năm họ là 960 người. Vật cống gồm có chiên, ngựa, chu sa. Triều đình ban thưởng áo gấm, đai bạc và các chi phí khác, tổng cộng hơn 24.400 quan, nhưng không nhận lại vật gì để đáp.

Năm Hy Ninh 熙寧 thứ 8 (1075), quy định năm họ phiên bang mỗi năm năm tiến cống một lần, nộp vật phẩm tại châu Nghi 宜州, châu Nghi định giá theo thời giá để đáp lễ. Lại có phiên bang họ Vi 韦 ở tây nam, cũng năm năm một lần tiến cống, châu Nghi nhận vật phẩm, chi phí đáp lễ hơn 1.200 quan.

Các châu thuộc chế độ ki mi 羈縻 cũng có nơi tiến cống, thuộc quản hạt của châu Nghi là ba châu một trấn ở An Hóa 安化, trước kia được phép ba năm một lần vào kinh triều cống, số người là 293. Sau đổi lại là nộp vật phẩm tại trại Tư Lập 思立 của châu Nghi, rồi đích thân đến châu nhận ban thưởng.

Người Di tây nam phần lớn búi tóc, đi chân đất, hoặc mặc vải hoa sặc sỡ, hoặc khoác chiên, đeo dao mang nỏ sau lưng. Tóc búi dùng giấy trắng buộc lại, nói là theo chế phục của Vũ hầu Gia Cát Lượng 諸葛武侯. Oai phong của Vũ hầu thật là xa vậy thay!


Đường đi đến các nước di (Thông Đạo Ngoại Di 通道外夷)

[sửa]

Trung Quốc thông đến Nam Man, tất phải đi qua trại Hoành Sơn 橫山 của Ung Châu 邕州. Từ Hoành Sơn đi một chặng đến huyện Cổ Thiên 古天縣, một chặng đến châu Quy Lạc 歸樂州, một chặng đến châu Đường Dữ 唐與州, một chặng đến châu Tuy Điện 睢殿州, một chặng đến châu Thất Nguyên 七源州, một chặng đến châu Tứ Thành 泗城州, một chặng đến động Cổ Na 古那洞, một chặng đến châu Long An 龍安州, một chặng đến Phụng Thôn Sơn 鳳村山 nơi người Lạo渡 sông, một chặng đến Thượng Triển 上展, một chặng đến Bác Văn Lĩnh 博文嶺, một chặng đến La Phù 羅扶, một chặng đến địa giới nước Tự Khởi 自杞 gọi là Ma Cự 磨巨, thêm ba chặng nữa đến nước Tự Khởi.

Từ Tự Khởi đi bốn chặng đến quận Cổ Thành 古城郡, ba chặng đến địa giới nước Đại Lý 大理 gọi là phủ Thiện Xiển 善闡府, sáu chặng nữa đến nước Đại Lý. Từ nước Đại Mai 大埋 đi năm chặng đến nước Bagan 蒲甘, cách Tây Thiên Trúc 西天竺 không xa, bị ngăn bởi sông bùn Ô Nê 淤泥河 nên không thông, cũng có thể thông nhưng cực kỳ hiểm trở. Tổng cộng ba mươi hai chặng.

Nếu muốn đến nước La Điện 羅殿國, cũng đi từ trại Hoành Sơn như ban đầu, đến châu Thất Nguyên thì rẽ đường. Một chặng đến huyện Mã Lạc 馬樂縣, một chặng đến huyện Ân Hóa 恩化縣, một chặng đến châu La Đoạt 羅奪州, một chặng đến châu Vi Mộ 圍慕州, một chặng đến Man A Thư 阿姝蠻, một chặng đến Man Chu Sa 硃砂蠻, một chặng đến phủ Thuận Đường 順唐府, hai chặng nữa đến nước La Điện, tổng cộng mười chín chặng.

Nếu muốn đến đạo Đặc Ma 特磨道, cũng đi từ Hoành Sơn, một chặng đến huyện Thượng An 上安縣, một chặng đến châu An Đức 安德州, một chặng đến châu La Bác 羅博州, một chặng đến huyện Dương 陽縣, một chặng đến Ải Ngạn 隘岸, một chặng đến Na Lang 那郞, một chặng đến châu Tây Ninh 西寧州, một chặng đến châu Phú 富州, một chặng đến huyện La Củng 羅拱縣, một chặng đến trạm Lịch Thủy 歷水鋪, một chặng đến đạo Đặc Ma.

Từ Đặc Ma đi một chặng đến Man Kết Dã 結也蠻, một chặng đến địa giới Đại Lý gọi là Hư 虛, một chặng đến phủ Tối Ninh 最寧府, sáu chặng nữa đến nước Đại Lý, tổng cộng hai mươi chặng.

Vì vậy nói rằng nước Đại Lý muốn dùng ngựa đến Trung Quốc, thì phía bắc bị ngăn bởi Tự Khởi, phía nam bị ngăn bởi Đặc Ma, đường đi đều tương đương. Nghe nói giữa Tự Khởi và Đặc Ma có đường mới đi thẳng đến Hoành Sơn, không qua hai nước. Nay ngựa đã đến hằng năm, cũng không cần đi đường khác nữa.

Hàng Hải Ngoại Di 航海外夷

[sửa]

Ngày nay, các châu quận ven biển trong thiên hạ, từ đông bắc đến tây nam, đi đến Khâm Châu 欽州 là hết. Các châu quận ven biển phần lớn đều có ty thị bạc. Triều đình để an phủ ngoại di, đặt Ty đề cử thị bạc tại Tuyền Châu 泉州 và Quảng Châu 廣州, nên phàm thương nhân phiên bang có việc gấp cần kêu oan đều đến ty này.

Tháng 10 hằng năm, ty thị bạc mở tiệc lớn tiễn thương nhân phiên bang. Khi họ đến, thường sau tiết hạ chí, ty thị bạc thu thuế và bảo hộ họ.

Trong các nước phiên bang giàu có nhiều hàng quý, không nước nào bằng Đại Thực 大食, kế đến là Xà Bà 闍婆, rồi đến Tam Phật Tề 三佛齊, sau mới là các nước khác. Tam Phật Tề là nơi trọng yếu của đường biển các nước.

Thuyền từ Tam Phật Tề đến, đi thẳng về bắc, qua Thượng Trúc, Hạ Trúc và biển Giao Chỉ, rồi đến lãnh thổ Trung Quốc. Muốn đến Quảng Châu thì vào từ cửa Đồn Môn 屯門, muốn đến Tuyền Châu thì vào từ cửa Giáp Tý 甲子門.

Thuyền từ Xà Bà đến, đi chếch tây bắc, qua mỏm đá Thập Nhị Tử 十二子石, rồi hợp với đường biển Tam Phật Tề dưới đảo Trúc 竺嶼.

Thuyền từ Đại Thực đến, dùng thuyền nhỏ đi về nam, đến nước Cổ Lâm 故臨 thì đổi sang thuyền lớn, đi về đông đến Tam Phật Tề, rồi theo đường Tam Phật Tề vào Trung Quốc.

Các nước như Chiêm Thành 占城, Chân Lạp 眞臘 đều ở gần phía nam biển Giao Chỉ 交洋, xa không bằng nửa đường từ Tam Phật Tề hay Xà Bà, mà Tam Phật Tề, Xà Bà lại không bằng nửa đường từ Đại Thực.

Các nước phiên bang vào Trung Quốc, một năm có thể đi về, chỉ riêng Đại Thực phải mất hai năm mới xong. Thuyền phiên bang thuận gió mà đi, một ngày ngàn dặm, nhưng nếu gặp gió bấc thì tai họa khôn lường. May mà đậu trong lãnh thổ ta thì còn có phép bảo hộ, nếu đậu nhầm nước ngoài thì người và hàng đều mất.

Còn như các nước Mặc Già 默伽, Vật Tư Lý 勿斯里, thì xa đến mức không biết mấy vạn dặm vậy.

Diên Biên Binh 沿邊兵

[sửa]

Thổ Đinh Thú Biên 土丁戍邊

[sửa]

Ung 邕 và Khâm 欽 giáp ranh với Giao Chỉ 交阯, từ xưa hai châu này đều dùng dân binh và quân tạp để trấn giữ biên giới. Việc dân binh Ung Châu trấn thủ biên giới chưa rõ ràng, còn trại Để Trạo 抵棹 của Khâm thì dùng 100 dân binh huyện An Viễn 安遠 thay phiên canh giữ, mỗi quý đổi một lần.

Về sau, do có loạn của Mạc Công Thịnh 莫公晟 ở Nam Đan 南丹, năm Đại Quan 大觀 nguyên niên (1107), triều đình mới ra chiếu cho dân binh châu Nghi 宜州 theo lệ Ung, Khâm mà trấn thủ biên giới. Quân chính trấn giữ lâu dài là 200 người, dân binh thay phiên là 300 người, lấy dân binh ba huyện Thiên Hà 天河, Tư Ân 思恩, Hà Trì 河池, cha con đều không phân phiên mà cùng giữ nơi đó.

Huyện Hà Trì gần Cao Phong 高峯, đối diện Nam Đan, là nơi hiểm yếu. Nhưng dân binh huyện này chỉ chia được hai phiên, mỗi quý thay một lần. Vì vậy, từ hai huyện trong nội địa là Nghi Sơn 宜山 và Hân Thành 忻城, cứ ba người trưng một, chia làm ba phiên, mỗi tháng thay một lần. Như vậy, dân binh Nghi Châu chịu việc nặng hơn cả Ung và Khâm.

Quan trấn thủ Nghi Châu nhiều lần dâng sớ xin triều đình cho dân binh các châu biên giới như Liễu 柳, Tượng 象, Tân 賓, Hoành 橫 thay phiên với dân binh Nghi Châu để giảm gánh nặng cho dân vùng biên, nhưng không được chấp thuận. Việc trấn thủ của Nghi Châu đến nay vẫn chưa dừng.


Đồng Đinh Thú Biên 峒丁戍邊

[sửa]

Dân các châu thuộc chế độ ki mi 羈縻 gọi là động đinh 峒丁, khỏe mạnh, có thể dùng làm lính. Các tù trưởng vùng khe động dùng họ làm quân giữ, gọi là Điền Tử Giáp 田子甲. Quan muốn dùng một người trong số đó cũng không được.

Chỉ có bảy động ở Khâm Châu 欽州 là động đinh chịu trấn thủ biên giới cho quan. Vì quyền lực bảy động yếu hơn vùng Ung Quản 邕管 nên phải nghe lệnh.

Theo chế cũ, ở động Khâm đặt một chức Tuần phòng sứ thần 巡防使臣, dùng 100 quân chính trấn giữ như ở động Xưa 昔峒, để phòng Giao Chỉ. Nhưng do quân chính ngược đãi, tù trưởng động xin không dùng quân chính, nguyện tự lấy động đinh thay phiên trấn giữ, vì vậy chỉ riêng Khâm Châu có việc động đinh trấn thủ.

Điền Tử Giáp 田子甲

[sửa]

Đồng Đinh 峒丁

[sửa]

Trại Đinh 寨丁

[sửa]

Thổ Đinh Bảo Đinh 土丁保丁

[sửa]

Hiệu Dụng 効用

[sửa]

Thổ Tuyên 土宣

[sửa]

Năm loại dân cư 五民

[sửa]

Người Khâm 欽 có năm loại:

1. Thổ nhân 土人: vốn là giống Lạc Việt 駱越 từ xưa. Sống ở thôn làng, dung mạo quê mùa, tiếng nói pha trộn, khó hiểu, gọi là Lâu ngữ 蔞語.

2. Bắc nhân 北人: lời nói dễ hiểu, pha giọng phương Nam. Vốn là dân lưu tán từ tây bắc thời loạn Ngũ Đại 五代, đến Khâm lập hộ tịch.

3. Lí nhân 俚人: sử gọi là Lí Lạo 俚獠, xuất thân từ các động Man 蠻峒, chuyên làm yêu thuật, như loài thú, tiếng nói càng khó hiểu.

4. Xạ canh nhân 射耕人: vốn người Phúc Kiến 福建, chiếm đất mà cày, con cháu đều nói giọng Mân 閩.

5. Đản nhân 蜑人: lấy thuyền làm nhà, sống nổi trên biển, tiếng nói giống Phúc Kiến và Quảng Đông, pha giọng Quảng Đông và Quảng Tây. Đản có ghi chép riêng.

Lười biếng làm nông nghiệp (Noạ Nông 惰農)

[sửa]

Đất rộng sâu, hoang vu mênh mông, ruộng nhà nông canh tác chỉ được một phần trăm. Chỉ nơi có nước suối chảy quanh năm mới làm ruộng được. Nếu đất hơi cao thì đều bỏ không ai đoái hoài.

Việc cày cấy chỉ đập vỡ đất, không cày sâu hay cải tạo. Gieo hạt ngay tại ruộng, không cấy mạ. Sau khi gieo, gặp hạn không tìm nước, gặp ngập không tháo nước, không bón phân, không làm cỏ, hoàn toàn phó mặc cho trời.

Gặt xong thì khoanh tay ngồi ăn hết năm. Vợ thì gánh hàng đi bán để nuôi, còn mình thì bế con rong chơi, lười biếng đến cực độ. Người vùng Quảng 广 đều gầy yếu, bệnh tật kéo dài, làm một ngày thì hôm sau ốm, có khi đến chết.


Tăng Đạo 僧道

[sửa]

Các châu huyện vùng Nam Trung 南中 có chùa miếu nhưng không có tăng đạo. Dân nghèo không thể xin được độ điệp, người có giấy của Ty Tế tự 祠部 rất ít, còn lại đều là đồng hành 童行.

Họ lấy danh nghĩa phục vụ các tiết lễ lớn, quan viên dựa vào châu huyện mà tạm cho phép cạo tóc đội mũ, rồi trở thành tăng đạo thật. Nếu có công văn xác nhận, thì lý do thường là bị trộm hoặc cháy mất độ điệp, quan cấp giấy làm bằng, rồi cho phép cạo tóc đội mũ.

   




Chú thích