Bước tới nội dung

Biên dịch:Lĩnh Ngoại đại đáp/Quyển 04

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Lĩnh Ngoại đại đáp  (nhà Tống)  của Chu Khứ Phi, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
Quyển 04

Phong Thổ 風土門

[sửa]

Quảng Hữu Phong Khí 廣右風氣

[sửa]

Người phương Nam có câu: “Mưa thì lạnh, nắng thì nóng, chẳng kể xuân hạ hay thu đông.” Câu này nói hết phong khí phương Nam vậy. Khí hậu Quế Lâm khá giống với Giang Chiết, nhưng đi về phía nam thành Quế Lâm vài chục dặm thì đã rất khác. Đỗ Tử Mỹ nói “nơi dễ chịu chỉ có Quế Lâm”, thật đúng vậy.

Ở Khâm Dương, mưa thì khí lạnh lùa vào người, nắng thì hơi nóng bốc lên hầm hập, âm u ẩm thấp, một ngày thay đổi nhiều lần, vừa sáng sủa chốc lát lại âm u. Tháng Chạp trời nắng lâu vẫn không rời áo vải quạt lụa; tháng Hè mưa dầm, phải vội khoác chăn áo lông. Thường là sáng ấm, trưa nóng, chiều mát, đêm lạnh, một ngày đủ cả bốn mùa. Tháng 9 hoa mai nở rộ, đêm Ba Mươi đã ăn mơ xanh, đầu xuân trăm hoa rợp bóng, phong, hoè, du, liễu bốn mùa xanh tốt. Cây cỏ tuy lớn nhưng dễ bị mối mọt mục nát. Ngũ cốc thì sáp, không ngọt; gia súc thì nhạt, không ngon; nước suối thì tanh, đục và thê lương; rau cỏ thì gầy, đắng và cứng.

Người sống ở đó phần nhiều gầy yếu, không chịu được việc nặng, sinh đẻ không nhiều, đất rộng người thưa, đều do phong khí gây nên. Người phương Bắc đến đó, nên ăn ít mà ăn nhiều bữa, mặc nhiều và thay thường xuyên, chỉ có rượu và sắc là không nên ham. Như vậy thì may ra tránh được chướng khí. Tuy nhiên, nội tạng ngày ngày tiếp xúc với thủy thổ xấu, độc khí thấm dần, cuối cùng cũng sinh bệnh, chỉ là nặng nhẹ khác nhau, lâu ngày thì cũng quen mà biến đổi theo.

Tuyết và mưa đá (Tuyết Bạo 雪雹)

[sửa]

Đỗ Tử Mỹ có thơ: “Ngũ Lĩnh đều nóng bức, dễ chịu chỉ Quế Lâm. Hoa mai ngoài vạn dặm, tuyết phủ suốt mùa đông.”

Nghĩa là Quế Lâm từng có tuyết, nhưng xuống phía nam thì không còn. Dân các châu khác không biết tuyết hình dạng ra sao. Người già ở Khâm nói, mấy chục năm trước, mùa đông thường có tuyết, năm đó ắt đại họa. Vì đất phương Nam thường ấm, cây cỏ mềm yếu, nếu có tuyết thì vạn vật chết cóng, năm sau đất không màu mỡ, xuân không sinh sôi, đó là tuyết tai, không phải tuyết lành.

Còn nếu mùa xuân hay hè có mưa đá thì năm đó được mùa lớn. Vì khí nóng mùa xuân hè bị mưa đá áp chế, lại thành hòa hoãn, vạn vật sinh trưởng gấp bội, khác với Trung Nguyên, xuân hè gặp mưa đá thì dương khí suy yếu. Khí trời giữa đất trời, khác biệt đến thế!

Vùng đất có chướng khí (Chướng Địa 瘴地)

[sửa]

Ngoài dãy Lĩnh, chướng khí độc không nhất thiết chỉ ở nơi sâu rộng. Như vùng Quỳnh Quản 瓊管 ở Hải Nam; Liêm, Lôi, Hóa ở phía bắc biển, tuy gọi là sâu rộng, nhưng chướng khí lại nhẹ hơn. Châu Chiêu giáp ranh với Hồ Nam và Tĩnh Giang, sĩ phu gọi đó là “pháp trường lớn”, ý nói nơi ấy giết người nhiều. Còn những vùng sâu rộng như Hoành, Ung, Khâm, Quý, chướng khí cũng nặng như Chiêu, chỉ không rõ “pháp trường nhỏ” là ở châu nào.

Từng cho rằng châu có chướng khí nặng phần nhiều do nước độc, không phải do thời tiết. Chiêu Châu có huyện Cung Thành, sông chảy qua thành, nước sẫm đục, đá sông đều đen. Hoành, Ung, Khâm, Quý đều không có giếng đá, chỉ có Khâm Giang có một mạch nước, nhưng là suối đất chứ không phải suối đá. Đất lại sinh nhiều loại thuốc độc, chủng loại không giống nhau, sao có thể không có độc trong nước?

Bệnh chướng phát tác cũng có vận khí, giống như dịch bệnh ở Trung Nguyên. Nói chung, nơi có nước độc thì tất là vùng sâu rộng. Quảng Đông lấy Tân Châu làm “pháp trường lớn”, Anh Châu làm “pháp trường nhỏ”, nên cùng được ghi lại.

Chướng khí (Chướng Khiêu Thảo Tử Phụ 瘴挑草子附)

[sửa]

Ở phương Nam, mọi bệnh đều gọi là chướng, thực ra giống thương hàn ở Trung Nguyên. Do khí trời uất bốc, dương khí phát tán, mùa đông không thu tàng, cây cỏ suối nước đều nhiễm khí độc. Người sống trong đó, ngày ngày nhiễm độc, nguyên khí không vững, phát thành bệnh chướng.

Nhẹ thì nóng lạnh thay nhau, giống bệnh ngược, gọi là lãnh chướng. Nặng thì chỉ nóng không lạnh, nặng hơn nữa thì nhiệt tích sâu, ngày đêm không ngơi, như nằm trên tro lửa, gọi là nhiệt chướng. Nặng nhất thì phát bệnh là mất tiếng, không rõ nguyên do, gọi là á chướng. Lãnh chướng chưa chắc chết, nhiệt chướng kéo dài tất chết, á chướng nếu trị đúng cách thì đôi khi sống được.

Lãnh chướng trị như bệnh ngược, nhiệt chướng trị như thương hàn, á chướng trị theo mất tiếng do thương hàn, tuy không hoàn toàn khỏi, nhưng thường quá nửa là khỏi. Trị chướng không thể dùng thuốc thương hàn Trung Nguyên, nếu chỉ thấy nhiệt mà dùng phác tiêu, đại hoàng để tả, người thể yếu sẽ nguy ngay.

Xưa ở phủ Tĩnh Giang, nhà Đường Thị Ngự có người tiên truyền cho phương thuốc Thanh hao tán, đến nay người phương Nam bị chướng dùng rất hiệu nghiệm. Thuốc gồm thanh hao, thạch cao và thảo dược, uống không khỏi là do người bệnh thể yếu, bệnh sâu. Phải dùng phụ tử, chu sa cứu gấp, thường khỏi nhiều. Phương Nam nóng bức mà dùng chu sa, không phải lấy nhiệt trị nhiệt, mà do dương khí không vững, mượn thuốc nhiệt để thu lại.

Đáng thương thay vùng sâu rộng, không biết y dược, chỉ biết cầu thần, mà chết oan uổng! Có người phương Nam bị nhiệt chướng, dùng phương “chọn cỏ” mà khỏi. Khi phát bệnh 1–2 ngày, dùng kim châm môi trên dưới. Cách làm: lật môi, châm chính giữa, nặn máu ra, rồi dùng lá giấy lau lưỡi, lại bắt bệnh nhân đứng khép chân, châm vào mạch xanh ở nếp gấp sau cổ chân, máu phun ra, rồi uống nước pha thanh hao, lập tức khỏi. Lãnh chướng và tạp bệnh không thể châm như vậy.

Nhiệt chướng là chứng thương hàn Thái dương, châm ra máu cũng là cách phát hãn. Môi trên dưới là kinh vị Dương minh đi qua, sau cổ chân là kinh bàng quang Thái dương đi qua. Thái dương phát bệnh 3 ngày thì Dương minh phát bệnh, cách châm của người phương Nam thật hợp lý mà không biết.

Có người phát chướng đã lâu, bệnh vào trong, gần chết, châm vào dương vật mà khỏi. Có lẽ vì nơi đó thông với ngũ tạng, nên có thể khỏi. Nhưng làm với người khỏe còn được, với người yếu thì há chẳng nguy sao!

Nhà cửa (Ốc Thất 屋室)

[sửa]

Ở các quận Quảng Tây, nhà lớn của người giàu lợp ngói, không làm trần gỗ, chỉ lót ngói giữa các rui. Ngẩng lên nhìn thấy ngói, chỉ cốt để không có chuột trú, ánh nắng xuyên qua, cũng không lấy làm phiền. Dân nghèo thì đắp gạch đất làm tường, dựng mái lên trên, hoàn toàn không có cột. Có người dùng tre lợp ngược làm ngói, hoặc chỉ đan hai lớp phên tre, mặc cho mưa dột. Dân vùng Quảng, bốn vách không trát bùn, ban đêm đốt đèn, ánh sáng chiếu ra ngoài, nên có lời châm biếm: “Một nhà thắp đèn, mười nhà sáng.”

Xét nguyên do, là vì đất ấy ấm, cần thông gió, không hợp với bít kín. Chưa từng thấy nhà lợp tranh, vậy thì người Quảng, ngay cả việc lợp tranh cũng cho là việc nhọc.

Nhà trên cây, nhà sàn (Sào Cư 巢居)

[sửa]

Ở vùng sâu rộng, dân cư dựng rào làm chỗ ở, phía trên lợp nhà tranh, phía dưới nuôi trâu lợn. Trên rào đan tre làm sàn, không có bàn ghế giường sạp, chỉ có một tấm da trâu làm chiếu, ăn ngủ trên đó. Phân trâu lợn bốc mùi qua kẽ sàn, không thể đến gần. Nhưng họ đã quen, không thấy khó chịu. Xét nguyên do, vì đất ấy nhiều hổ sói, nếu không làm vậy thì người và vật đều không yên, chẳng phải giống như lối ở tổ trên cây thời thượng cổ sao?

Cày bừa (Đạp Lê 踏犂)

[sửa]

Dân Tĩnh Giang khá siêng năng làm ruộng. Khi cày, trước tiên dùng sức người đạp cày, sau đó mới dùng trâu để san bằng. Cày đạp có hình như cái thìa, dài khoảng 6 thước, đầu gắn thanh gỗ ngang hơn 1 thước, là chỗ hai tay nắm. Giữa cán cày, bên trái có gắn tay cầm ngắn, là chỗ đặt chân trái. Mỗi lần đạp cày được 3 thước thì nhấc chân trái, dùng hai tay lật đất, gọi là một lần tiến. Cứ thế tiến dần, luống đất đều thành hàng, không khác gì cày trâu. Ta từng tính, đạp cày 5 ngày mới bằng trâu cày 1 ngày, mà độ sâu cũng không bằng.

Hỏi ra thì biết là vì tiếc trâu. Trâu từ vùng sâu rộng đưa đến, không chịu được việc nặng. Người Quế nuôi trâu không đúng cách, chỉ thả cho ăn cỏ, không hề cho ăn thêm. Mùa hè thả xuống nước, mùa đông nhốt vào hang đá, không có chuồng trại che gió mưa. Nay người Chiết nuôi trâu, mùa đông đóng chuồng kín, lót rơm dày, ngày nắng thì dắt ra phơi nắng, dọn phân thay rơm, mỗi ngày lên núi lấy cỏ tươi, sợ trâu đói một bữa. Trâu Chiết vì thế mà siêng năng, sống lâu, không chỉ do giống tốt, mà còn nhờ người chăm sóc đúng cách. Người phương Nam nuôi trâu như vậy, sao có thể dùng lâu được?

Còn nơi không có trâu, thì phương pháp đạp cày sao có thể bỏ? Lại nữa, đất Quảng nhiều gai góc, khó dùng cuốc, ba người hai cái cày đạp, đào một hố rộng 5 thước, rễ lớn nào cũng bật lên, rất dễ làm, phương pháp này không thể không giữ.

Xuân Đường 樁堂

[sửa]

Dân Tĩnh Giang sau khi gặt lúa, lấy phần thân rơm có bông lúa, gọi là “thanh lãnh hòa”. Ở góc nhà đặt một máng gỗ lớn, đến bữa ăn thì lấy rơm lúa trong máng ra giã, tiếng vang như mõ trong chùa. Các cô gái dùng chày giã theo nhịp, tạo thành âm điệu, gọi là “xuân đường”. Mỗi sáng và chiều, tiếng xuân đường vang khắp nơi, nghe rất rõ.

Tống Lão 送老 (tiễn lão)

[sửa]

Tối ngày cưới ở Lĩnh Nam, cô dâu trang điểm lộng lẫy ngồi trong miếu, bạn gái cũng ăn mặc đẹp đứng hai bên, thay nhau hát đối, chan chứa tình cảm, bịn rịn lưu luyến, gọi là “tiễn lão”, ý nói sắp xa bạn thời niên thiếu, tiễn nhau đến lúc đầu bạc. Bài hát, người Tĩnh Giang (靜江) dùng điệu “Tô Mạc Gia” (蘇幕遮), người Khâm (欽) dùng điệu “Nhân Nguyệt Viên” (人月圓), đều tự sáng tác tại chỗ, không chịu bắt chước, trong đó có bài rất hay.

Lễ tiễn lão đều diễn ra lúc khuya, trai làng kéo nhau đến xem, có người giữa đám đông cất tiếng hát trêu bạn gái, bạn gái biết là ai, liền hát đáp lại, đôi khi tiết lộ chuyện riêng trong nhà, thường vì thế mà sinh tranh cãi, cũng có khi nhờ đó mà nên duyên.

Phương Ngôn 方言

[sửa]

Phương ngữ, người xưa đã có. Như tiếng Lầu (蔞語) ở Quảng Tây (廣西), gọi quan 官 là “câu chủ 溝主” (cậu chủ?), mẹ 母 là “mễ nang 米囊”, bà ngoại (外祖母) là “đê 低”, kẻ nô bộc (僕使) gọi là “trai tốt 齋捽”, ăn cơm là “báo nhai 報崖”, những từ như vậy phải có người phiên dịch mới hiểu.

Đến cư dân thành thị thì lời nói dễ hiểu, so với Phúc Kiến (福建), Hồ Tương (湖湘) đều rõ ràng hơn. Trong đó có nhiều cách nói rất hay, Trung Nguyên không thể sánh được.

Gọi buổi sáng là “triều thời 朝時”, buổi tối là “bô thời 晡時”, dùng đồ tre đựng cơm như hộp gọi là “đan 簞”, dùng bình đất đựng nước gọi là “anh 罌”, tương giao gọi là “khế giao 契交”, tự xưng bản thân thì nói là “hàn tiện 寒賤” (kẻ hàn tiện này), người lớn hơn mình thì gọi là “lão huynh”, nhỏ hơn gọi là “lão đệ”, người già gọi người nhỏ là “lão điệt 老姪” (cháu) , gọi trẻ nhỏ là “tôn”, gọi trẻ con chung là “tế tử”, gọi lười biếng là “bất sự sản nghiệp” (không có sự nghiệp), gọi người thù hằn là “bỉ kỳ đãi ngã”, làm việc mỏi tay gọi là “chỉ cùng”, nghèo khổ không sức gọi là “lực quỹ”, bảo người đi trước gọi là “hành tiền” (đi trước), nước rút gọi là “thủy vĩ sát”, đậu thuyền gọi là “mai thuyền đầu”, rời bến gọi là “phản thuyền đầu”, thuyền đi gọi là “thuyền tại thủy bì thượng” (thuyền trên mặt nước), chó chân to gọi là “đại trùng cước”. Những cách nói như vậy cũng có thể gọi là nhã.

Ta từng bảo người phiên dịch dùng “Lễ bộ vận 禮部韻” để tra tiếng Giao Chỉ (交阯語), từng chữ đều khác, chỉ có chữ “hoa 花” là không cần dịch. Lại gọi “bắc 北” là “sóc 朔”. Ghi lại để lưu.

Tục Tự 俗字 (chữ viết riêng)

[sửa]

Ở Quảng Tây (廣西) có nhiều chữ viết theo lối dân gian. Như:

  • 𨱥, âm ải 矮, nghĩa là lùn, tức không cao.
  • 𡘫, âm ổn 穩, nghĩa là ngồi vững.
  • 奀, âm động 動, nghĩa là gầy yếu.
  • 𤯚, âm chung 終, nghĩa là chết.
  • 𧗩, âm lạp 臘, nghĩa là không nhấc nổi chân.
  • 仦, âm niểu 嫋, nghĩa là trẻ nhỏ.
  • 𡚻, đọc theo “đồ giá” thiết 徒架切, nghĩa là chị gái.
  • 閂, âm “sản” 𣟴, nghĩa là then cửa ngang.
  • 𥐢, âm khâm 磡, nghĩa là vách đá, vách núi.
  • 汆, âm sầu 泅, nghĩa là người nổi trên mặt nước.
  • 氼, âm mị 魅, nghĩa là người chìm dưới nước.
  • 𣬠, âm hồ 鬍, nghĩa là nhiều râu mép.
  • 𥐹, đọc theo “đông cảm” thiết 東敢切, nghĩa là tiếng đá ném xuống nước.

Ở vùng biên phía nam nước Đại Lý (大理國), trong văn thư vẫn còn dùng chữ “圀”, là chữ “國” do Võ Hậu (武后) tạo ra.

Pháp Chế 法制門

[sửa]

Tấu Tịch 奏辟

[sửa]

Tấu tịch ở Quảng Tây (廣西) không giới hạn tư cách, chỉ cần có tài là được chọn. Từ chức Thủ khuyết, Phó úy, Hạ ban trở xuống, hễ được tấu tịch thì đều có thể đảm nhiệm việc quân dân. Thường thì ban đầu được tịch làm Tuần úy, Tri trại; kế đến là Tri huyện, Đô giám vùng biên; tiếp theo có thể tịch làm Đề cử Tả, Hữu Giang; cao hơn nữa là Tri châu, Quân vùng biên, đều có thể tấu tịch.

Chức Thủ, Phó trước đây do Soái ty tấu tịch, nay phần nhiều cùng Giám ty liên danh tấu lên. Soái ty cũng có thể tự tấu tịch quan giữ binh ở châu, quân vùng biên. Quan tiền nhiệm sắp mãn nhiệm, trước nửa năm đã được phép chọn người có tài để tấu tịch thay thế. Hễ tấu thư được trình lên, là có thể nhận quyền ngay, thường thì người không phải quan được bổ nhiệm chính thức cũng nhờ đó mà thăng tiến.

Chờ khi có chiếu mệnh ban xuống, thời gian nhận quyền cũng được tính là đang tại chức; nếu không được chuẩn, thì chỉ là mất chức mà thôi. Thật là nơi con đường làm quan biến hóa nhanh chóng, so với quy chế của Lại bộ thì khác biệt một trời một vực!

Định Nghĩ 定擬

[sửa]

Quảng Tây (廣西) xa triều đình, sĩ phu khó đến Lại bộ, nên giao cho Ty tào thi hành việc tuyển chọn của Lại bộ, gọi là “Nam tuyển 南選”. Các quận có khuyết chức, Lại bộ ghi vào danh sách còn sót, nếu một tháng không ai được bổ nhiệm thì chuyển xuống Ty tào định người thay. Sĩ phu chờ đến lượt, nếu được chọn một chức khuyết thì được phép nhận quyền trước, Lại bộ xét thấy không trái quy chế thì cấp giấy bổ nhiệm, tính ngày tháng trước đó là ngày nhận chức. Sĩ phu phương Nam rất vui với điều này.

Người từng làm quan ở Quảng Tây phần nhiều không muốn được bổ làm quan ở các ty, chỉ muốn được bổ chức vượt quy cách. Người mới nhậm chức cũng không muốn làm Giám đương, Bạ, Úy, chỉ muốn được bổ làm quan ty vượt cách. Như Lại bộ bổ quan cho bốn chức khuyết ở Trung Nguyên, thường một chức có bốn người cùng chia, chỉ riêng chức khuyết ở Quảng Tây là không ai được bổ. Khi chuyển xuống định người thay, chỉ cho phép người đang cư trú, người theo hầu, người từng làm ở bản lộ được tham tuyển, người ít chức nhiều, thường là được chọn ngay. Người được chọn có thể tích lũy tư cách và thành tích, há phải là điều Lại bộ thường làm được sao? Vì vậy, sĩ phu phương Nam phần nhiều không ra khỏi dãy Ngũ Lĩnh, chính là vì lý do này.

Thí Trường 試場 (chuyện thi cử)

[sửa]

Hai Quảng có ba loại trường thi: gọi là khoa cử, tuyển thí, và nhiếp thí. Nay tuyển thí đã bỏ, chỉ còn nhiếp thí và khoa cử. Khoa cử ngoài Lĩnh càng được coi trọng hơn Trung Nguyên, vì còn có một môn nhiếp quan tồn tại.

Ban đầu, nhiếp quan thuộc Ty tào, Quảng Tây mở trường thi ở Tĩnh Giang (靜江), thi đoán án theo “Ngũ thế đại pháp gia”. (Theo Tống sử: thời Thuần Hy, Bí thư lang Lý Nghiễm xin cho người học đại pháp đồng thời học kinh nghĩa. Chiếu định từ nay trường thứ nhất, thứ hai, thứ ba thi đoán án; trường thứ tư thi kinh nghĩa; trường thứ năm thi hình thống luật nghĩa. “Thế” và “thí” âm giống nhau, nghi là chép nhầm.)

Lấy số khuyết làm chỉ tiêu, cử người Ty pháp Tĩnh Giang làm giám khảo, việc đoán án đôi khi do họ trực tiếp làm. Khoa cử thiếu người có xuất thân, cho phép cử người ân bảng làm khảo quan. Người dự thi ít mà chỉ tiêu khá rộng, dù là Tả, Hữu Giang hay khe động cũng có hai suất đỗ. Các châu có sĩ nhân đỗ, chờ thi lại lần nữa thì được thử làm nhiếp quan, tức quan tạm quyền. Chỉ riêng sĩ tử Tĩnh Giang không màng đến việc ấy, nên thường có người đỗ đạt.

Nhiếp Quan 攝官

[sửa]

Hai Quảng có hai loại sĩ nhân đỗ giải, được phép đến Ty tào dự thi nhiếp quan, lấy số khuyết làm chỉ tiêu. Người có tên trong danh sách được Ty tào cấp công văn, mặc áo xanh, tham gia Nam tuyển, rồi ra làm quan trị dân, chính là loại quan tạm quyền mà luật gọi là “giả bản quan”.

Nhiếp quan có ba bậc: 1. Nhiếp quan chờ đến lượt, 2. Nhiếp quan chính ngạch, 3. Nhiếp quan được chuyển phát.

Người chờ đến lượt, nếu qua hai nhiệm kỳ không có lỗi, Ty tào sẽ cấp lại công văn và giấy in để thành chính ngạch. Lại qua hai nhiệm kỳ không lỗi, Ty tào sẽ chuyển hồ sơ lên Lại bộ, bổ làm Địch công lang, từ đó chính thức bước vào con đường làm quan. Trong thời gian chưa được bổ chính thức, nếu phạm tội tham ô, vẫn bị xử như quan thật.

Khi đã có cấp bậc, thì được đưa vào danh sách bổ nhiệm chính thức, chờ sáu kỳ khảo hạch, rồi trình trạng để đổi chức. Sĩ tử hai Quảng, tuổi trẻ đỗ giải, liền có thể làm nhiếp quan, vài năm là được bổ chính, được thưởng hậu hĩnh, tích lũy tư cách dễ dàng, thăng chức rất nhanh, có người làm đến Chính lang, nuôi được mấy người con làm quan.

Thường lấy các chức Giám đương, Bạ, Úy ở vùng biển xa xôi làm chức khuyết cho nhiếp quan, Lại bộ lại thu nhận những chức khuyết khá hơn để bổ quan chính. Ban đầu lấy 50 người làm chỉ tiêu, nay giảm còn 30, không còn nhanh chóng như xưa.

Sĩ phu hai Quảng, nếu biết tự rèn luyện, thì cần gì phải dựa vào giả bản? Nghe xưa có một nhiếp quan họ Dương ở Hợp Châu (賀州), lần đầu tham gia Nam tuyển, theo lệ đến gặp quan tuyển, bị đối xử lạnh nhạt, Dương nổi giận, rút thẻ nhiếp quan đánh quan tuyển, rồi đốt áo xanh và giấy nhiếp quan mà bỏ đi. Năm sau đỗ khoa, làm quan nơi nào cũng giỏi. Nếu người làm nhiếp quan đều như vậy, thì còn lo gì sĩ khí phong tục hai Quảng không hưng thịnh!

Nam Hải Dịch Pháp 南海役法 (lao dịch ở Nam Hải)

[sửa]

Từ khi pháp miễn dịch được thi hành, thiên hạ không còn châu nào dùng dân làng thay phiên làm lại, chỉ có bốn quận ở Hải Nam là chưa áp dụng. Nghe nói người làm quan ở Hải Nam bảo rằng, tuy gọi là dân làng thay phiên, nhưng thực chất là tuyển người làm lại. Những người nhận tuyển đã coi đó là nghề cha truyền con nối, dân chúng lại cho rằng miễn dịch là bất tiện, muốn nộp tiền thay dịch mà không được.

Lòng ham quyền lợi, ai cũng có. Gần kinh sư thì người ta xem công danh là quyền lợi; xa triều đình, không còn mong vinh hiển, chỉ biết lợi là quyền lợi. Lại ở các châu huyện Quảng Tây đều là người họ lớn trong làng, có thể làm họa hay phúc cho cả vùng, ai cũng kính trọng, khác hẳn với Giang Chiết, nơi coi làm lại là điều nhục. Quan lại quý ở nơi xa cũng như quan quý ở Giang Chiết, huống chi là nơi xa như Nam Hải? Điều ta từng biết, e chỉ là lời tự bảo vệ của một hai kẻ làm lại được tuyển.

Từng cho rằng pháp miễn dịch là điều mà thánh nhân gọi là “thuận theo điều sai mà ban ơn”. Người sinh ra giữa trời đất, sống trong lo lắng, chết vì an nhàn. Người giàu làm lại, há chẳng khổ cực? Nhưng khi đã gánh việc, ắt sẽ biết thương làng xóm, tuy không dám chắc không làm điều sai, nhưng chắc không đến mức dùng văn thư để hại dân như quan lại ngày nay. Nếu để dân được nộp tiền miễn dịch để nhàn thân, mà lòng lại khinh ghét việc làm lại, thì bao nhiêu pháp hay ý đẹp của tiên vương đều bị dân ghét bỏ, để rồi kẻ được tuyển làm lại lại sinh con cháu trong việc hại dân, khiến dân chịu họa vô cùng, há chẳng đau xót lắm sao?

Từ khi pháp miễn dịch được thi hành, người có chí với đời đến cuối cũng không dám ra làm lại, vì dân đã yên với điều đó. Thánh nhân gọi là “thuận theo điều sai mà ban ơn”, chính là pháp này vậy! Phép dân làng thay phiên không phải là bắt dân làm để nuôi quan, mà là cùng dân lo xa để giữ lấy sinh mệnh. Ngày nay dân khắp thiên hạ đều chịu khổ vì quan lại, may còn bốn quận Hải Nam giữ được phép cũ. Ta lo rằng sau này sẽ có người muốn lay chuyển mà bỏ đi để thi hành miễn dịch, thì như dê chết rồi, lễ cũng mất theo!

Thường Bình 常平 (bình ổn thị trường)

[sửa]

Thường bình mễ thốc hiện còn rất ít, nơi nào cũng vậy. Các quận ở Quảng Hữu (廣右), chỉ có Tĩnh Giang (靜江) là thường bình mễ dùng để cấp gạo lương cho nhân viên các ty. Các quận khác, không phải vì quân lương thiếu mà tiếc không hoàn lại, mà là do lâu ngày không phát cứu trợ, gạo bị hư hỏng, mất mát.

Quân lương thiếu phải vay gạo, nơi nào cũng thế, không riêng gì Quảng Hữu. Hơn nữa, ở Quảng Tây (廣西), một đấu gạo chỉ giá 50 tiền, lúa rẻ chưa từng thấy. Nhưng lúa rẻ không phải vì lúa nhiều, mà là do dân số ít, nhu cầu ăn lúa không cao. Nhà nông ngoài phần tự dùng, còn lại đều đem bán, không hề tích trữ lâu dài. Từ thương nhân trở xuống đều mua với giá thấp, thuyền bè nối đuôi nhau chở về Phiên Ngung (番禺) để kiếm lời. Gọi là lúa rẻ, thực ra là không có tích trữ.

Nếu châu quận lâu ngày không phát cứu trợ, gặp liên tiếp mấy năm mất mùa, giá gạo một đấu lên đến 200 tiền, thì dân đã gặp nạn ly tán, châu huyện cũng bó tay không có cách gì đối phó. Vậy thì lúa rẻ thật không thể trông cậy được. Còn việc lấy mới thay cũ, là việc châu quận có thể làm được; việc thu vào rồi phát ra, sao không nhân năm được mùa mà mua nhiều để phòng bị?

   




Chú thích