Biên dịch:Minh sử/Quyển 321
An Nam
[sửa]An Nam 安南, xưa là đất Giao Chỉ 交阯. Trước thời nhà Đường, đều thuộc Trung Quốc. Đến thời Ngũ Đại, bắt đầu bị người bản xứ là Khúc Thừa Mỹ 曲承美 chiếm giữ. Đầu thời Tống, phong cho Đinh Bộ Lĩnh 丁部領 làm Giao Chỉ quận vương 交阯郡王, truyền ba đời thì bị đại thần Lê Hoàn 黎桓 cướp ngôi. Họ Lê cũng truyền ba đời thì bị đại thần Lý Công Uẩn 李公蘊 cướp ngôi. Họ Lý truyền được tám đời, không có con, truyền ngôi cho con rể là Trần Nhật Cự 陳日炬.[1] Nhà Nguyên nhiều lần đánh phá nước này.
Năm Hồng Vũ thứ nhất (1368), vương là Nhật Khuể 日煃[2] nghe tin Liêu Vĩnh Trung 廖永忠 đã bình định được Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), định sai sứ sang triều cống, nhưng vì Lương Vương (nhà Nguyên) còn ở Vân Nam nên chưa thực hiện được. Đến tháng Chạp, Thái Tổ [3] sai tri phủ Hán Dương là Dịch Tế sang chiêu dụ. Nhật Khuể sai Thiếu trung đại phu Đồng Thời Mẫn, Chính đại phu Đoàn Đễ, Lê An Thế... mang biểu sang triều kiến, dâng cống phẩm. Tháng Sáu năm sau, đoàn sứ đến kinh đô. Vua Minh vui mừng, ban yến tiệc, sai Thị độc học sĩ Trương Dĩ Ninh và Điển bạ Ngưu Lượng mang sắc phong cho Nhật Khuể làm An Nam quốc vương, ban cho ấn bạc khảm vàng hình lạc đà.
Chiếu thư viết:
"Này An Nam quốc vương Trần Nhật Khuể, tổ tiên ngươi giữ gìn biên cương phía Nam, xưng thần với Trung Quốc, kính cẩn làm bề tôi, nên được phong truyền đời. Trẫm nhờ ơn trời đất, dẹp yên Trung Hoa, nay gửi thư đáp lại. Ngươi dâng biểu xưng thần, sai sứ sang chúc mừng, noi theo lời dạy của tổ tiên, an dân nơi biên viễn. Trẫm xét lòng thành ấy, rất đáng khen ngợi. Vì vậy sai sứ mang ấn đến, phong ngươi làm An Nam quốc vương. Than ôi! Hãy lấy lòng nhân mà cai trị rộng khắp, noi theo điển lễ của bậc minh quân; phong tước vượt bậc, để nối tiếp danh thơm của tổ tiên. Hãy càng thêm đức tốt, mãi làm phiên thần, khâm thử!"
Vua Minh ban cho Nhật Khuể lịch Đại Thống, gấm vóc dệt hoa bốn mươi tấm. Đồng Thời Mẫn và các người đi theo đều được ban thưởng.
Khi Trương Dĩ Ninh và các sứ thần đến nơi thì Trần Nhật Khuể đã mất, cháu là Trần Nhật Kiên 日熞[4] lên nối ngôi. Nhật Kiên sai quan là Nguyễn Nhữ Lượng ra đón và xin nhận chiếu thư cùng ấn phong, nhưng Trương Dĩ Ninh không trao. Nhật Kiên lại sai Đỗ Thuấn Khâm cùng các sứ thần sang triều đình xin phong. Trương Dĩ Ninh ở lại An Nam chờ lệnh.
Lúc đó, An Nam và Chiêm Thành đang có chiến sự. Vua Minh sai Hàn lâm biên tu La Phục Nhân và Binh bộ chủ sự Trương Phúc sang dụ hai nước ngừng chiến, cả hai đều tuân chiếu.
Năm sau, Đỗ Thuấn Khâm và các sứ thần đến báo tang. Vua Minh mặc đồ tang, tiếp kiến tại cửa Tây Hoa, rồi sai biên tu Vương Liêm sang tế, ban phúng điếu gồm 50 lạng bạc trắng và 50 tấm lụa. Lại sai Lại bộ chủ sự Lâm Đường Thần phong cho Nhật Kiên làm An Nam quốc vương, ban ấn vàng và 40 tấm gấm vóc dệt hoa.
Sau khi Vương Liêm đi, vua Minh nhớ công Hán Mã Viện từng lập cột đồng trấn Nam Man, công lao to lớn, nên sai Vương Liêm nhân tiện tế lễ tại đó. Sau đó, triều đình ban chiếu về khoa cử cho nước này, đồng thời đổi tên các thần núi sông và dẹp yên vùng sa mạc, hai lần sai quan sang truyền chiếu.
Nhật Kiên sai Thượng đại phu Nguyễn Kiêm, Trung đại phu Mạc Quý Long, Hạ đại phu Lê Nguyên Phổ sang tạ ơn và dâng cống phẩm. Nguyễn Kiêm mất dọc đường, vua Minh ban chiếu an ủi vua và các sứ thần, cho đưa linh cữu Kiêm về nước.
Chẳng bao lâu, La Phục Nhân và các sứ thần trở về, tâu rằng người An Nam từ chối nhận lễ vật tiễn đưa. Vua Minh khen ngợi, ban thưởng thêm cho Mạc Kỷ Long và các người đi theo.
Năm thứ tư (1371), mùa xuân, An Nam sai sứ sang triều cống voi, chúc mừng việc bình định vùng sa mạc, lại sai sứ đi cùng Trương Dĩ Ninh và các sứ thần về triều.
Mùa đông năm đó, Trần Nhật Kiên bị người bác là Trần Thúc Minh 叔明[5] ép chết. Thúc Minh sợ tội, dâng voi và cống phẩm để chuộc lỗi. Sang năm sau, sứ thần đến kinh đô, quan Lễ bộ thấy biểu không ghi tên Nhật Kiên, tra hỏi mới biết sự thật, vua Minh ra chiếu từ chối tiếp nhận.
Thúc Minh lại sai sứ sang triều cống, xin tạ tội và cầu phong. Sứ thần đến nơi nói rằng Nhật Kiên thực sự đã bệnh chết, Thúc Minh vốn tránh ở ngoài, được người trong nước suy tôn lên ngôi. Vua Minh ra lệnh dân trong nước phải để tang Nhật Kiên, còn Thúc Minh thì tạm thời dùng ấn của vua trước để xử lý việc nước.
Năm thứ bảy (1374), Thúc Minh sai sứ sang tạ ơn, tự xưng tuổi già, xin cho em là Trần Thoan 煓[6] nhiếp chính, vua Minh đồng ý. Trần Thoan sai sứ sang tạ ơn, xin định kỳ triều cống. Vua Minh ra chiếu quy định ba năm một lần triều cống, mỗi đời vua mới thì phải sang chầu.
Không lâu sau, lại sai sứ sang cống, vua Minh ra lệnh cho các quan truyền dụ từ chối, đồng thời quy định sứ thần không được quá ba bốn người, cống phẩm không được quá nhiều.
Năm thứ mười (1377), Trần Thoan đem quân xâm lược Chiêm Thành, bị thua trận và tử trận. Em là Trần Vĩ 煒[7] lên thay, sai sứ sang báo tang, vua Minh sai nội quan Trần Năng sang tế.
Lúc đó, An Nam ỷ thế mạnh, muốn diệt Chiêm Thành, nhưng ngược lại bị tổn thất nặng nề. Vua Minh sai quan sang dụ bảo cựu vương là Trần Thúc Minh không được gây hấn chuốc họa, vì thực chất Thúc Minh vẫn là người nắm quyền chính. Thúc Minh dâng cống phẩm để tạ tội.
Thổ quan Tư Minh ở Quảng Tây tố cáo An Nam xâm phạm biên giới, An Nam cũng tố lại Tư Minh quấy nhiễu biên cương. Vua Minh ra hịch kể tội An Nam gian trá, ra lệnh cho các quan trấn thủ không được tiếp nhận sứ thần của họ.
Trần Vĩ[8] sợ hãi, sai sứ sang tạ tội, nhiều năm liền dâng hoạn quan, vàng bạc, mâm vàng, bình rượu bằng vàng, voi và ngựa để làm lễ vật. Vua Minh sai trợ giáo Dương Bàn sang sứ, lệnh cho An Nam cung cấp lương thực cho quân đội Vân Nam, Trần Vĩ liền nộp 5.000 thạch gạo tại Lâm An.
Năm thứ hai mươi mốt (1388), vua Minh lại sai Lễ bộ lang trung Hình Văn Vĩ mang chiếu thư và lễ vật sang ban thưởng. Trần Vĩ sai sứ sang tạ ơn, lại dâng voi. Vua Minh thấy việc triều cống quá thường xuyên và lễ vật quá xa hoa, ra lệnh giữ nguyên quy định ba năm một lần triều cống, không được dâng tê giác và voi nữa.
Lúc đó, quốc tướng Lê Quý Ly 黎季犛 chuyên quyền, phế vua Trần Vĩ, rồi giết đi, lập con của Trần Thúc Minh là Trần Nhật Côn 日焜[9] nắm việc nước, nhưng vẫn mượn danh nghĩa của Trần Vĩ để dâng cống. Triều đình nhà Minh không biết, vẫn tiếp nhận. Vài năm sau mới phát giác, liền ra lệnh cho quan trấn thủ Quảng Tây cắt đứt việc tiếp sứ.
Lê Quý Ly sợ hãi, năm thứ hai mươi bảy (1394) sai sứ đi đường Quảng Đông để dâng cống. Vua Minh nổi giận, sai quan đến tra hỏi và từ chối nhận cống phẩm. Lê Quý Ly càng thêm lo sợ, năm sau lại dùng lời lẽ quanh co để xin dâng cống. Vua Minh tuy ghét việc hắn giết vua cướp ngôi, nhưng không muốn phiền hà việc chinh phạt xa xôi, nên chấp nhận.
Lúc đó, đại quân đang đánh Triệu Tông Thọ 趙宗壽 ở Long Châu, vua Minh sai Lễ bộ thượng thư Nhâm Hanh Thái và Ngự sử Nghiêm Chấn Trực sang dụ Trần Nhật Côn, bảo đừng nghi ngờ. Lê Quý Ly nghe vậy thì hơi yên tâm.
Vua Minh lại sai Hình bộ thượng thư Dương Tĩnh sang dụ, yêu cầu nộp tám vạn thạch gạo để cấp lương cho quân ở Long Châu. Lê Quý Ly chỉ nộp một vạn thạch, dâng thêm một nghìn lạng vàng, hai vạn lạng bạc, nói rằng đường bộ đến Long Châu hiểm trở, xin chuyển lương đến động Bằng Tường. Dương Tĩnh không đồng ý, ra lệnh nộp hai vạn thạch tại sông Đà Hải, nơi chỉ cách Long Châu nửa ngày đường.
Dương Tĩnh tâu rằng: "Trần Nhật Côn còn nhỏ, mọi việc nước đều do cha con Lê Quý Ly quyết định, nên mới dám chần chừ như vậy."
Lúc đó, vua Minh vì Triệu Tông Thọ đã chịu hàng, nên chuyển quân đi đánh các bộ tộc man ở Tượng Vũ, liền dụ Dương Tĩnh nhận hai vạn thạch gạo để cấp quân, và miễn cho số vàng bạc đã dâng.
Năm sau, Lê Quý Ly báo tang Trần Thúc Minh. Vua Minh cho rằng Thúc Minh vốn là kẻ cướp ngôi giết vua, nếu cử hành lễ viếng thì chẳng khác nào khuyến khích loạn thần, nên không làm lễ, chỉ ra hịch thông báo rõ ràng.
Thổ quan Tư Minh là Hoàng Quảng Thành 黃廣成 tâu rằng: "Từ thời nhà Nguyên lập phủ Tổng quản Tư Minh, quản lý các châu huyện vùng Tả Giang, phía đông giáp Tư Châu, phía nam lấy cột đồng làm ranh giới. Khi nhà Nguyên chinh phạt Giao Chỉ, lập phủ Vạn hộ trại Vĩnh Bình cách cột đồng một trăm dặm, sai quân đóng giữ, bắt người Giao cung cấp lương thực cho quân. Cuối đời Nguyên loạn lạc, người Giao đánh phá Vĩnh Bình, vượt qua cột đồng hơn hai trăm dặm, chiếm đất năm huyện Khâu Ôn, Như Ngao, Khánh Viễn, Uyên, Thoát thuộc Tư Minh. Gần đây lại tố cáo Thượng thư Nhâm đặt trạm dịch tại động Đăng địa thuộc Tư Minh. Thần từng dâng tấu đầy đủ, được sai Thượng thư Dương đi điều tra thực tế. Nay xin ra chiếu lệnh cho An Nam trả lại năm huyện, và lấy cột đồng làm ranh giới."
Vua Minh sai hành nhân Trần Thành và Lữ Nhượng sang dụ, nhưng Lê Quý Ly kiên quyết không nghe. Trần Thành tự viết thư dụ Trần Nhật Côn, Lê Quý Ly lại gửi thư tranh biện, còn thay Nhật Côn viết thư gửi sang Bộ Hộ.
Trần Thành và Lữ Nhượng về báo, vua Minh biết rằng họ quyết không chịu trả đất, bèn nói: "Man di tranh chấp với nhau, xưa nay vẫn có. Chúng ỷ vào ngoan cố, ắt sẽ chuốc họa, cứ chờ xem."
Năm Kiến Văn nguyên niên (1399), Lê Quý Ly giết Trần Nhật Côn, lập con Côn là Trần Ngung 顒. Lại giết Ngung, lập em là Trần An 𭴣 (chữ Hán là 上安下火), lúc đó còn bọc trong tã, rồi lại giết đi.[10] Tàn sát dòng họ Trần, rồi tự lập làm vua, đổi tên là Hồ Nhất Nguyên 胡一元, đặt tên con là Hồ Hán Thương 蒼 thành Hồ Đê 胡𡗨, nói là hậu duệ của vua Thuấn, dòng dõi Hồ Công. Xưng quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu là Nguyên Thánh, sau đó tự xưng là Thái thượng hoàng, truyền ngôi cho Hán Thương. Triều đình nhà Minh lúc ấy vẫn chưa hay biết.
Thành Tổ (Minh Thành Tổ) sau khi kế thừa đại thống, sai quan mang chiếu thư lên ngôi sang báo cho nước An Nam. Năm Vĩnh Lạc nguyên niên (1403), Hồ Đê (Hán Thương) tự xưng là quyền lý quốc sự nước An Nam, sai sứ dâng biểu triều cống, nói rằng:
"Thời Cao Hoàng đế (Minh Thái Tổ), An Nam vương Nhật Khuể 日煃 là người đầu tiên tỏ lòng thành, nhưng chẳng may mất sớm, không có người kế tự. Thần là cháu ngoại họ Trần, được mọi người tôn phò, tạm quyền xử lý việc nước đến nay đã bốn năm. Ngưỡng mong ân trời ban cho tước phong, thần xin một lòng trung thành đến chết."
Việc này được chuyển sang Bộ Lễ, các quan nghi ngờ, xin sai người sang điều tra. Vua Minh bèn sai hành nhân Dương Bột mang chiếu sang dụ các bầy tôi và phụ lão nước ấy, hỏi rõ việc họ Trần có còn người kế tự hay không, việc Hồ Hán Thương được tôn lập là thật hay giả, rồi báo cáo trung thực.
Sứ giả của Hán Thương được ban thưởng rồi cho về, lại sai hành nhân Lữ Nhượng và Khâu Trí mang gấm vóc, lụa là sang ban thưởng.
Sau đó, sứ giả của Hán Thương theo Dương Bột về triều, dâng biểu của các bầy tôi và phụ lão nước ấy, nội dung đúng như lời Hán Thương đã dối vua, xin được phong tước cho Hán Thương.
Vua Minh bèn sai Lễ bộ lang trung Hạ Chỉ Thiện phong cho Hán Thương làm An Nam quốc vương. Hán Thương sai sứ sang tạ ơn, nhưng vua Minh vẫn giữ thái độ dè dặt với tình hình trong nước ấy.
Các vùng Lộc Châu, Tây Bình Châu và trại Vĩnh Bình thuộc Tư Minh bị An Nam xâm chiếm. Vua Minh ra dụ lệnh yêu cầu trả lại, nhưng không nghe theo. Chiêm Thành tố cáo An Nam xâm lược cướp bóc, triều đình ra chiếu yêu cầu hòa hiếu. Hồ Hán Thương tuy nói tuân mệnh, nhưng vẫn tiếp tục xâm lược như cũ, lại còn trao ấn tín ép Chiêm Thành làm thuộc quốc, cướp đoạt cả lễ vật mà triều đình ban cho.
Vua Minh tức giận, đang định sai quan đến trách mắng nghiêm khắc thì cựu bầy tôi (nhà Trần) là Bùi Bá Kỳ 裴伯耆 đến triều đình kêu oan, tâu rằng:
"Tổ phụ thần đều là đại phu chấp chính, chết vì việc nước. Mẫu thân thần là người họ Trần, thuộc thân tộc gần. Thần từ nhỏ hầu hạ quốc vương, từng làm quan phẩm hàm ngũ phẩm, sau theo Vũ Tiết hầu Trần Khát Chân 武節侯陳渴真 làm phó tướng. Cuối đời Hồng Vũ, thay Khát Chân chống giặc ở Đông Hải. Nhưng nghịch thần Lê Quý Ly cha con giết vua (nhà Trần) cướp ngôi, tàn sát trung lương, diệt tộc đến hàng trăm người. Anh em, vợ con thần cũng bị hại. Chúng sai người truy bắt thần, định xử tử phanh thây. Thần bỏ quân trốn chạy, ẩn náu nơi núi rừng, mong được đến triều đình bày tỏ gan ruột, trải qua nhiều năm mới thấy được ánh sáng. Thần nghĩ Lê Quý Ly vốn là con của cựu Kinh lược sứ Lê Quốc Mao 黎國髦, đời đời thờ họ Trần, nhờ đó mà được vinh sủng. Con hắn là Thương 蒼 cũng được trọng dụng. Thế mà một sớm cướp ngôi, đổi họ thay tên, xưng hiệu riêng, cải niên hiệu, không tuân mệnh triều đình. Trung thần nghĩa sĩ đều đau lòng căm giận, mong khởi binh phạt tội, khôi phục chính thống, trừ gian diệt loạn, lập lại hậu duệ họ Trần. Dù thần có chết cũng không hối tiếc. Xin được noi gương trung nghĩa của Thân Bao Tư, kêu khóc dưới triều, mong Hoàng đế soi xét."
Vua Minh nghe tấu cảm động, sai quan cấp cho y phục và lương thực.
Đúng lúc đó, nước Lão Qua đưa Trần Thiên Bình 陳天平 đến, tâu rằng:
"Thần là Trần Thiên Bình, cháu nội của tiền vương Trần Nhật Huyên 日烜, con của Trần Oảnh 奣, em của Trần Nhật Khuể 日煃. Lê tặc (Quý Ly) đã giết sạch họ Trần, thần vì ở ngoài châu quận nên may mắn thoát nạn. Các bề tôi trung nghĩa cảm khái, suy thần làm chủ để đánh giặc. Đang bàn việc chiêu binh thì quân giặc kéo đến, thần phải vội vàng chạy trốn, ẩn náu nơi núi rừng, sống chết trong gang tấc, mới đến được Lão Qua. Nghe tin Hoàng đế đăng chính đại thống, thần có nơi nương tựa. Trèo đèo lội suối vạn dặm, đến triều đình kêu oan. Họ Trần chỉ còn lại một mình thần, thần và giặc này không đội trời chung. Cúi xin Thánh tri soi xét, sớm phát sáu quân, để thể hiện mệnh trời phạt tội."
Vua Minh càng thêm cảm động, sai quan đưa vào phủ đệ nuôi dưỡng.
Hồ Hán Thương đang sai sứ sang chúc mừng lễ Chính Đán (Tết Nguyên Đán), vua Minh cho gọi Trần Thiên Bình ra trình diện trước mặt sứ thần. Tất cả đều kinh ngạc, sững sờ, rồi quỳ xuống lạy, có người bật khóc.
Bùi Bá Kỳ trách mắng sứ thần bằng những lời lẽ đầy chính nghĩa, khiến họ hoảng sợ, không thể đáp lại.
Vua Minh nói với các cận thần: "Cha con Hồ Hán Thương phản nghịch, đến cả quỷ thần cũng không dung tha, vậy mà trong nước từ quan lại đến dân chúng đều đồng lòng che giấu, lừa dối triều đình. Một nước như thế, toàn là tội nhân, trẫm sao có thể dung thứ được?"
Năm thứ ba (1405), vua Minh sai Ngự sử Lý Kỳ 李琦 và hành nhân Vương Xu 王樞 mang chiếu sang trách mắng Hồ Hán Thương, yêu cầu phải khai rõ sự thật về việc cướp ngôi và giết vua.
Lúc này, châu Ninh Viễn thuộc Vân Nam lại tố cáo Hồ Hán Thương xâm chiếm bảy trại, bắt rể và con gái của họ.
Hồ Hán Thương sai quan là Nguyễn Cảnh Chân 阮景真 theo Lý Kỳ và Vương Xu vào triều để tạ tội, miệng nói rằng chưa từng xưng đế hay đổi niên hiệu, xin được đón Trần Thiên Bình về nước, tôn làm chủ, đồng thời xin trả lại đất Lộc Châu và Ninh Viễn.
Vua Minh không ngờ đó là gian trá, bèn chấp thuận. Sai hành nhân Nhiếp Thông 聶聰 mang chiếu sang dụ, nói rằng: "Nếu thực sự đón Trần Thiên Bình về, đối đãi như quân vương, thì sẽ phong cho ngươi làm thượng công, ban cho đất lớn."
Hồ Hán Thương lại sai Nguyễn Cảnh Chân theo Nhiếp Thông về báo rằng sẽ đón Trần Thiên Bình. Nhiếp Thông hết lời nói tốt cho Hán Thương, vua Minh tin là thật, bèn cho Trần Thiên Bình trở về nước, sai hai phó tướng quân Quảng Tây là Hoàng Trung 黃中 và Lữ Nghị 呂毅 đem 5.000 quân hộ tống.
Năm thứ tư (1406), Trần Thiên Bình từ biệt lên đường, vua Minh ban thưởng hậu hĩnh, ra chiếu phong cho Hồ Hán Thương làm Thuận Hóa quận công, được hưởng toàn bộ thuế và quyền cai trị các châu huyện thuộc vùng đó.
Tháng Ba, đoàn hộ tống đưa Trần Thiên Bình vào cửa ải Kê Lăng 雞陵關, sắp đến trạm Ghè 芹站 thì Hồ Hán Thương phục binh chặn đánh, giết chết Thiên Bình. Đoàn hộ tống bị đánh bại, phải rút lui.
Vua Minh nổi giận, triệu Thành Quốc công Chu Năng 成國公朱能 và các đại thần bàn bạc, quyết định phát binh chinh phạt. Tháng Bảy, sai Chu Năng mang ấn “Chinh Di tướng quân” làm tổng binh, Tây Bình hầu Mộc Thạnh 西平侯沐晟 mang ấn “Chinh Di phó tướng quân” làm tả phó tướng, Tân Thành hầu Trương Phụ 新城侯張輔 làm hữu phó tướng, Phong Thành hầu Lý Bân 豐城侯李彬 và Vân Dương bá Trần Húc 雲陽伯陳旭 làm tả, hữu tham tướng, cùng chỉ huy đại quân nam chinh.
Chu Năng đến Long Châu thì lâm bệnh mất, Trương Phụ thay ông chỉ huy quân đội. Quân Minh tiến vào An Nam qua cửa ải Pha Lũy 坡壘關, ban hịch kể tội cha con Hồ Quý Ly hai mươi điều, tuyên cáo với dân rằng sẽ lập lại hậu duệ họ Trần.
Đại quân đến trạm Ghè, bắc cầu phao qua sông Xương Giang 昌江 để vượt sông. Tiền quân đến phía bắc sông Phú Lương 富良江, thuộc huyện Gia Lâm, còn Trương Phụ từ trạm Ghè đi đường vòng sang phủ Bắc Giang, huyện Tân Phúc. Quân của Mộc Thạnh và Lý Bân từ Vân Nam đến Bạch Hạc, rồi sai Phiêu kỵ tướng quân Chu Vinh 驃騎將軍朱榮 đến hội quân.
Lúc đó, các cánh quân chia đường tiến đánh, đến đâu cũng thắng. Quân Hồ dựng rào dọc sông, đắp thành đất ở ải Đa Bang 多邦隘, thành lũy kéo dài hơn 900 dặm, huy động hơn hai triệu dân vùng bắc sông để phòng thủ. Các cửa sông đều đóng cọc gỗ, kinh đô Đông Đô 東都[11] được phòng bị nghiêm ngặt, thủy lục quân xưng là bảy triệu, định dùng chiến thuật cầm cự lâu dài để làm suy yếu quân Minh.
Trương Phụ chuyển doanh trại đến cửa sông chợ Cá Chiêu 箇招市江口 thuộc châu Tam Đái 三帶州, đóng chiến thuyền. Vua Minh lo quân giặc kéo dài thời gian để chờ khí hậu độc hại làm suy yếu quân đội, nên ra lệnh cho Trương Phụ phải tiêu diệt giặc trong mùa xuân năm sau.
Tháng Chạp, Mộc Thạnh đến bờ bắc sông Thao, đối diện thành Đa Bang. Trương Phụ sai Trần Húc đánh châu Thao Giang, bắc cầu phao đưa quân vượt sông, rồi cùng tiến đến chân thành, đánh hạ được. Thành này là nơi quân giặc đặt nhiều hy vọng, nay bị phá, khiến chúng hoảng loạn.
Đại quân theo sông Phú Lương tiến xuống phía nam, đánh thẳng vào Đông Đô. Quân giặc bỏ thành chạy, quân Minh tiến vào chiếm giữ, rồi tiến đến Tây Đô[12]. Quân giặc đốt phá cung điện, xuống thuyền chạy ra biển. Các châu huyện lần lượt đầu hàng, nơi nào chống cự đều bị đánh bại. Sĩ dân dâng thư kể tội họ Lê (Hồ Quý Ly) mỗi ngày hàng trăm bản.
Tháng Giêng năm thứ năm (1407), quân Minh đại phá quân của Hồ Quý Ly tại sông Mộc Hoàn. Vua Minh ban chiếu tìm kiếm hậu duệ họ Trần. Khi đó, có hơn 1.120 bô lão đến doanh trại quân Minh, tâu rằng:
"Họ Trần đã bị giặc Lê giết sạch, không còn ai kế tục. An Nam vốn là đất của Trung Quốc, xin được nhập lại vào bản đồ quốc nội, như các quận huyện trong nước."
Trương Phụ và các tướng dâng tấu trình việc ấy.
Sau đó, quân Minh lại đại phá quân giặc tại sông Phú Lương. Cha con Hồ Quý Ly dùng vài chiếc thuyền trốn chạy. Các cánh quân thủy bộ cùng truy kích, đến huyện Trà Lung thì biết Quý Ly chạy về Nghệ An, liền theo sông Cử Quyết đuổi đến cửa biển Kỳ La thuộc châu Nhật Nam, sai Liễu Thăng 柳升 ra biển truy bắt.
Quân giặc liên tiếp thất bại, không còn khả năng tổ chức kháng cự.
Tháng Năm, bắt được Hồ Quý Ly và ngụy hoàng thái tử tại núi Cao Vọng, toàn cõi An Nam được bình định.
Quần thần xin theo lời các bô lão, thiết lập quận huyện như nội địa Trung Quốc.
Ngày mồng một tháng Sáu (năm 1407), vua Minh ban chiếu cáo thiên hạ, đổi tên An Nam 安南 thành Giao Chỉ 交阯, thiết lập ba cơ quan hành chính trung ương:
- Cử Đô đốc Thiêm sự Lữ Nghị làm người đứng đầu Đô ty, Hoàng Trung làm phó.
- Cử cựu Công bộ Thị lang Trương Hiển Tông và Phúc Kiến Bố chính ty Tả tham chính Vương Bình làm Tả, Hữu Bố chính sứ.
- Cử cựu Hà Nam Án sát sứ Nguyễn Hữu Chương làm Án sát sứ.
- Bùi Bá Kỳ được bổ làm Hữu tham nghị.
- Lại sai Thượng thư Hoàng Phúc kiêm quản cả hai ty Bố chính và Án sát.
Thiết lập 15 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình, Tân An, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Trấn Man, Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ An, Thuận Hóa; chia quản 36 châu và 181 huyện.
Lại lập thêm 5 châu trực thuộc Bố chính ty: Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Gia Hưng, Quy Hóa, Quảng Uy; chia quản 29 huyện.
Các nơi hiểm yếu đều đặt vệ sở để kiểm soát.
Ra lệnh cho các cơ quan hữu trách:
- Các vương tôn họ Trần bị giết đều được truy phong thụy hiệu, lập miếu thờ và mộ phần, mỗi nơi đặt 20 hộ để chăm sóc.
Những người trong tông tộc bị hại được truy phong chức tước.
- Quân dân chết trận hoặc bị bỏ xác ngoài đồng đều được chôn cất.
- Quan lại cũ được giữ nguyên chức, cùng với người mới bổ nhiệm cùng cai trị.
- Các chính sách hà khắc của họ Lê (Hồ) đều bị bãi bỏ, những người bị xử oan đều được tha.
- Người già cả, đức cao được đối đãi trọng hậu.
- Những người cô quả, không nơi nương tựa được lập viện dưỡng tế.
- Người có tài đức được khuyến khích vào triều.
- Ra chiếu tìm kiếm những người ẩn cư nơi núi rừng, thông hiểu kinh sử, hiền lương chính trực, hiếu đễ cần cù, thông minh chính trực, liêm khiết giỏi giang, thạo việc quan, giỏi toán học, tinh thông binh pháp, có tướng mạo khôi ngô, ăn nói lưu loát, sức khỏe dũng mãnh, giỏi thuật âm dương, y dược phương mạch… đều được mời về triều, tuyển dụng theo lễ.
Trương Phụ và các tướng lần lượt tiến cử hơn 9.000 người.
Tháng Chín, cha con Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị áp giải về triều đình, cùng với các tướng tá giả mạo như Hồ Đỗ đều bị giao cho quan xử lý. Riêng em của Hán Thương là Vệ quốc đại vương Hồ Trừng[13] và con là Hồ Nhuế được tha, cấp phát y phục và lương thực.
Tháng Sáu năm thứ sáu (1408), Trương Phụ và các tướng rút quân về kinh, dâng bản đồ đất Giao Chỉ, ghi rõ: chiều đông tây dài 1.760 dặm, chiều nam bắc dài 2.800 dặm.
Đã an định dân chúng được hơn 3.120.000 người, bắt được người Man hơn 2.875.000 người, thu được voi, ngựa, trâu bò hơn 235.900 con, lúa gạo 13.600.000 thạch, thuyền bè hơn 8.670 chiếc, và khí giới hơn 2.539.800 món.
Vua Minh ban thưởng lớn: Trương Phụ được phong Anh quốc công, Mộc Thạnh được phong Kiềm quốc công, các tướng khác cũng được ban thưởng theo thứ bậc.
Lúc đó, các quan lại do triều đình nhà Minh bổ nhiệm đều cố gắng dùng chính sách khoan dung để ổn định vùng đất mới chiếm, nhưng người Man (chỉ người Việt) vì cảm thấy mình không cùng một giống dân nên thường xuyên hoang mang, sợ hãi.
Quan cũ của họ Trần là Trần Giản Định, trước đó đã đầu hàng, định được đưa về kinh đô, nhưng lại cùng đồng đảng là Trần Hy Cát bỏ trốn, liên kết với các quan lại giả mạo ở Hóa Châu như Đặng Tất, Nguyễn Súy mưu tính nổi dậy.
Trần Giản Định tự xưng đế, đặt niên hiệu Hưng Khánh, quốc hiệu là Đại Việt. Ông ẩn hiện trong vùng núi Nghệ An và Hóa Châu, chờ lúc đại quân nhà Minh rút về thì xuất quân đánh phá các nơi như Bàn Than, Hàm Tử Quan, chặn đường giao thông trọng yếu đi lại giữa phủ Tam Giang và các vùng khác, quấy nhiễu vùng giáp ranh Giao Châu.
Các châu huyện như Từ Liêm, Uy Man, Thượng Hồng, Thiên Đường, Ứng Bình, Thạch Thất đều hưởng ứng. Các tướng giữ thành nhiều lần xuất quân đánh dẹp nhưng không thành công.
Sự việc được tâu lên, vua Minh sai Mộc Thạnh làm Chinh Di tướng quân, thống lĩnh 40.000 quân từ Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên tiến đánh từ hướng Vân Nam. Đồng thời sai sứ mang chiếu thư chiêu hàng, hứa ban chức tước cha truyền con nối cho ai quy thuận.
Quân khởi nghĩa không hưởng ứng. Mộc Thạnh giao chiến tại sông Sinh Quyết 生厥江, bị đại bại. Lữ Nghị và Tham tán Thượng thư Lưu Tuấn đều tử trận.
Năm thứ bảy (1409), khi tin thất bại được báo về, triều đình nhà Minh liền điều thêm 47.000 quân từ các vùng Nam Kinh, Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, Hồ Quảng, Quảng Đông và Quảng Tây, giao cho Anh quốc công Trương Phụ tiếp tục chinh phạt.
Trương Phụ nhận thấy quân khởi nghĩa dựa vào địa thế sông biển, không thuận lợi cho quân bộ, nên đóng quân tại Tiên Du, Bắc Giang, tập trung đóng chiến thuyền lớn, đồng thời vỗ về những người dân bị giặc cướp phải bỏ trốn.
Sau đó, quân Minh liên tiếp đánh phá các doanh trại của quân khởi nghĩa ở Từ Liêm và Quảng Oai.
Trinh sát phát hiện đồng đảng của Trần Giản Định là Đặng Cảnh Dị 鄧景異[14] đang chặn giữ cầu Thái Bình ở bến Lô, châu Nam Sách, Trương Phụ liền tiến quân đến Hàm Tử Quan.
Lúc đó, tướng giả mạo Kim Ngô là Nguyễn Thế Mỗi 阮世每 dẫn 20.000 quân đóng trại bên kia sông, dựng đồn trại, bố trí hơn 600 chiến thuyền, đóng cọc ở phía đông nam để phòng thủ.
Tháng Tám, gió tây bắc thổi mạnh, Trương Phụ chỉ huy các tướng Trần Húc, Chu Quảng, Dư Nhượng, Phương Chính đồng loạt tiến quân bằng thuyền, pháo tên bắn như mưa, chém hơn 3.000 đầu, bắt sống hơn 200 người, trong đó có tướng giả mạo Giám môn là Phan Đê, thu được hơn 400 chiến thuyền.
Sau đó tiến đánh Đặng Cảnh Dị, Cảnh Dị bỏ chạy trước. Quân Minh liền bình định các phủ Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tân An, Kiến Xương, Trấn Man.
Tiếp tục truy kích, đánh bại Đặng Cảnh Dị tại cửa biển Thái Bình, bắt được đồng đảng là Phạm Tất Lật 范必栗.
Lúc đó, Nguyễn Súy 阮帥 và các tướng suy tôn Trần Giản Định làm Thái thượng hoàng, rồi lập Trần Quý Khuếch (Khoáng) 陳季擴 làm hoàng đế, đặt niên hiệu là Trùng Quang 重光. Họ sai sứ sang triều đình nhà Minh, tự xưng là cháu của cựu An Nam vương, xin được phong tước.
Trương Phụ quát mắng rồi chém chết sứ giả, sau đó dẫn quân theo đường Hoàng Giang, A Giang, cửa biển Đại An đến sông Phúc Thành, rồi chuyển vào cửa biển Thần Đầu, phá sạch các cọc gỗ và lũy trại mà quân khởi nghĩa dựng lên.
Chỉ trong hơn mười ngày, quân Minh đã đến Thanh Hóa, các cánh quân thủy bộ đều hội quân đầy đủ. Lúc này, Trần Giản Định đã chạy đến Diễn Châu, Trần Quý Khoáng trốn về Nghệ An, Nguyễn Súy, Đặng Cảnh Dị và các tướng khác cũng tan rã.
Quân Minh đóng quân lại, truy bắt tàn quân. Trần Giản Định chạy đến trại Cát Lợi, huyện Mỹ Lương, Trương Phụ và các tướng truy đuổi đến nơi. Giản Định chạy vào núi, quân Minh lùng bắt khắp nơi nhưng không tìm được, bèn vây chặt. Cuối cùng bắt được ông cùng các tướng giả mạo như Trần Hy Cát, Nguyễn Như Lệ, Nguyễn Yến và những người khác.
Trước đó, tàn quân của giặc là Nguyễn Sư Cối 阮師檜 tự xưng vương, cùng với tướng giả mạo Kim Ngô thượng tướng quân Đỗ Nguyên Thố và các đồng đảng chiếm đóng xã Nghi Dương, huyện An Lão, châu Đông Triều, có hơn hai vạn quân.
Tháng Giêng năm thứ tám (1410), Trương Phụ tiến quân đánh dẹp, chém hơn 4.500 đầu, bắt sống hơn 2.000 người gồm Phạm Chi, Trần Nguyên Khanh, Nguyễn Nhân Trụ và những kẻ khác, đều bị xử trảm, đắp thành gò đầu lâu (kinh quan).
Trương Phụ chuẩn bị rút quân, tâu rằng: "Trần Quý Khoáng và các đồng đảng Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng (Nguyễn) Cảnh Dị vẫn còn ở Diễn Châu, Nghệ An, đe dọa Thanh Hóa. Đặng Dung đang chặn cửa biển Thần Đầu, Phúc Thành, kiểm soát đường trọng yếu ở Thanh Hóa, xuất hiện ở nhiều nơi thuộc Nghệ An. Nếu toàn bộ quân rút về, e rằng quân của Mộc Thạnh ít người, không đủ sức chống giữ. Xin để lại Đô đốc Giang Hạo, các chỉ huy Du Nhượng, Hoa Anh, Sư Hựu và quân đội để hỗ trợ Mộc Thạnh phòng thủ."
Vua Minh đồng ý.
Tháng Năm, Mộc Thạnh truy đuổi Trần Quý Khoáng đến sông Ngu Giang, quân giặc bỏ trại chạy. Quân Minh truy đến huyện Cổ Linh, rồi đến cửa biển Hội Triều, Linh Trường, chém hơn 3.000 đầu, bắt được tướng giả mạo Lê Lộng. Trần Quý Khoáng bị dồn ép, dâng biểu xin hàng. Vua Minh biết là giả trá nhưng tạm thời chấp thuận, ra chiếu phong cho làm Giao Chỉ Bố chính sứ, phong Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung làm Đô chỉ huy, Trần Nguyên Tôn làm Hữu tham chính, Phan Kỳ Hựu làm Án sát phó sứ.
Chiếu vừa ban ra, vua Minh nghĩ giặc không có ý hối cải, nên năm thứ chín (1411) lại sai Trương Phụ thống lĩnh 24.000 quân hợp với quân của Mộc Thạnh tiến đánh.
Quân giặc đóng ở sông Nguyệt Thường, đóng cọc dài hơn 40 trượng, hai bên bờ sông dựng trại dài 2–3 dặm, bố trí hơn 300 chiến thuyền, đặt phục binh ở sườn núi bên phải.
Mùa thu, Trương Phụ, Mộc Thạnh chia quân thủy bộ cùng tiến. Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung ra nghênh chiến. Trương Phụ sai Chu Quảng và các tướng nối thuyền phá cọc tiến vào, tự mình dẫn Phương Chính và bộ binh đánh tan phục binh, thủy bộ giáp công. Quân giặc đại bại, các tướng đều tan chạy.
Bắt sống các tướng giả mạo Đặng Tông Tích, Lê Đức Di, Nguyễn Trung, Nguyễn Hiên, thu được hơn 120 chiến thuyền.
Trương Phụ liền chỉ huy thủy quân truy kích Trần Quý Khoáng, nghe tin các châu huyện Thạch Thất, Phúc An có tướng giả mạo Long Hổ tướng quân Lê Nhị và đồng đảng chặt cầu phao sông Nhuệ, chặn đường tiếp tế phía sau Giao Châu, liền tiến quân đánh dẹp.
Lê Nhị và Phạm Khảng ra nghênh chiến, Lê Nhị trúng tên chết. Quân Minh chém tướng giả mạo Nguyễn Đà, bắt sống tướng giả mạo Dương Nhữ Mai, phòng ngự sứ Phùng Hấp, chém hơn 1.500 đầu, truy sát tàn quân gần hết. Phạm Khảng, Đỗ Cá Đán, Đặng Minh, Nguyễn Tư Giam 阮思瑊 đều bị bắt.
Năm thứ mười (1412), Trương Phụ chỉ huy Phương Chính và các tướng đánh thủy quân của giặc tại cửa biển Thần Đầu, đại phá quân địch, bắt được các tướng giả mạo như Trần Lỗi, Đặng Như Hí.
Nguyễn Súy và các tướng bỏ chạy xa, quân Minh truy đuổi nhưng không kịp.
Khi quân Trương Phụ đến vùng Thổ Hoàng, Nghệ An, thì tướng giả mạo Thiếu bảo là Phan Quý Hựu 潘季祐 xin hàng, dẫn theo 17 viên quan giả đến đầu thú.
Trương Phụ nhân quyền phong Phan Quý Hựu làm Án sát phó sứ, tạm thời trông coi việc phủ Nghệ An.
Sau đó, các tướng giả mạo như Trần Mẫn, Nguyễn Sĩ Cần, Trần Toàn Húc, Trần Toàn Mẫn — giữ các chức Giám quân, Quan sát, An phủ, Chiêu thảo sứ — cũng lần lượt ra hàng.
Năm sau (1413), Trương Phụ và Mộc Thạnh hợp quân tiến đến Thuận Châu. Nguyễn Súy và các tướng bố trí phục binh ở sông Ái Tử, chiếm giữ địa thế hiểm trở núi Côn Truyền, bày trận voi để nghênh chiến. Quân Minh đại phá quân giặc, bắt sống 56 người, trong đó có các tướng giả mạo như Phan Kính, Nguyễn Từ, truy kích đến sông Ái Mẫu. Quân giặc tan rã, em của Đặng Dung là Đặng Thiết – tướng giả mạo hầu tước – cùng các tướng Phan Lỗ, Phan Cần đều ra hàng.
Mùa xuân năm sau, quân Minh tiến đến Chính Hòa. Tướng giặc là Hồ Đồng đầu hàng, khai rằng tướng giả mạo Đại tướng quân Đặng Cảnh Dị dẫn theo đồng đảng Lê Thiềm và 700 người trốn sang Xiêm Man, đóng tại sách Côn Bồ.
Quân Minh liền tiến đến sông La Mông, bỏ ngựa đi bộ, đến nơi thì quân giặc đã trốn. Truy kích đến sách Bồ Nại, nhưng giặc lại bỏ chạy. Quân Minh hành quân suốt đêm hơn 20 dặm, nghe tiếng trống canh, Trương Phụ dẫn Phương Chính và các tướng ngậm hàm thiếc (ra hiệu im lặng), gấp rút tiến quân, đến sáng thì đến sách Bồ Cán. Quân giặc còn đóng trại ở bờ nam sông.
Quân Minh vượt sông bao vây, bắn tên trúng vào sườn Đặng Cảnh Dị, bắt sống được. Đặng Dung và em là Đặng Doãn 鈗 bỏ chạy, bị truy bắt, toàn bộ quân lính bị bắt sống.
Tướng khác là Chu Quảng 朱廣 truy đuổi Nguyễn Súy đến đất Xiêm Man, lục soát các đèo núi trong vùng, bắt được Nguyễn Súy cùng gia quyến của Trần Quý Khoáng. Nguyễn Súy chạy đến châu Nam Linh, nương nhờ thổ quan Nguyễn Trà Vựng 阮茶彙. Chỉ huy Tiết Tụ 薛聚 truy bắt được Nguyễn Súy và chém chết Nguyễn Trà Vựng.
Ban đầu, khi Đặng Dung bị bắt, Trần Quý Khoáng chạy trốn đến núi Trúc Bài ở Nghệ An. Trương Phụ sai Đô chỉ huy Sư Hựu truy kích, Quý Khoáng lại chạy sang đất Lào. Sư Hựu tiếp tục truy đuổi, nước Lào sợ quân Minh xâm phạm lãnh thổ nên xin tự trói Quý Khoáng để dâng nộp.
Trương Phụ ra hịch yêu cầu giao nộp, lệnh cho Sư Hựu tiến sâu vào lãnh thổ, đánh chiếm ba cửa ải, đến được Kim Lăng Cá 金陵箇. Quân giặc tan rã, cuối cùng bắt được Trần Quý Khoáng cùng em là Trần Quý Tản 季揝 – người tự xưng là Tể tướng và Hoan Quốc vương. Các tàn quân khác cũng bị tiêu diệt hoàn toàn.
Sang năm sau, tháng Hai (1414), Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về kinh. Tháng Tư, Trương Phụ lại được lệnh mang ấn “Chinh Di tướng quân” ra trấn giữ. Đến năm thứ mười bốn (1416), ông được triệu hồi. Năm sau, phong Phong Thành hầu Lý Bân thay ông trấn nhậm.
Người Giao Chỉ vốn hay làm loạn. Khi viên hoạn quan Mã Kỳ 馬騏 đến để thu mua vật phẩm, đã lục soát khắp nơi tìm kiếm châu báu, khiến dân chúng hoang mang. Những kẻ gian ác nhân cơ hội đó kích động, đại quân vừa rút thì lập tức nổi dậy làm loạn. Ở Lục Na có Nguyễn Trinh, Lê Hạch và Phan Cường ở Thuận Châu cùng với các thổ quan như Trần Khả Luận, phán quan Nguyễn Chiêu, thiên hộ Trần Hung, phán quan châu Nam Linh là Nguyễn Nghĩ, tri huyện Tả Bình là Phạm Bá Cao, huyện thừa Vũ Vạn, bách hộ Trần Dĩ Luật đều đồng loạt phản loạn. Tướng Bân đều sai quân đi dẹp, nhưng loạn vẫn chưa dứt.
Chẳng bao lâu sau, tuần kiểm Nga Lạc là Lê Lợi 黎利, con trai Xa Tam của cựu tri huyện Tứ Mang là Xa Miên, tri phủ Nghệ An là Phan Liêu 潘僚, thiên hộ châu Nam Linh là Trần Thuận Khánh, bách hộ vệ Nghệ An là Trần Trực Thành cũng nhân cơ hội nổi dậy. Những kẻ gian khác như Phạm Nhuyễn nổi dậy ở Nhạc Lạc, Vũ Cống và Hoàng Như Điển nổi dậy ở Kệ Giang, Nùng Văn Lịch ở Khâu Ôn, Trần Mộc Quả ở Vũ Định, Nguyễn Đặc ở Khoái Châu, Ngô Cự Lai ở Thiện Thệ, Trịnh Công Chứng và Lê Điệt ở Đồng Lợi, Đào Cường ở Thiện Tài, Đinh Tông Lão ở Đại Loan, Phạm Ngọc 范玉 ở An Lão đều tự xưng quan tước, giết quan lại, đốt phá nhà cửa.
Có hai người là Dương Cung và Nguyễn Đa tự xưng là vương, phong cho bè đảng như Vi Ngũ, Đàm Hưng Bang, Nguyễn Gia làm thái sư, bình chương, liên kết với các nhóm giặc khác. Trong số đó, Phan Liêu và Phạm Ngọc là hung hăng nhất. Phan Liêu là con của cựu tri phủ Nghệ An là Phan Quý Hựu, kế thừa chức cha, không chịu nổi sự tàn bạo của Mã Kỳ nên nổi loạn. Các thổ quan như chỉ huy Lộ Văn Luật, thiên hộ Trần Đài cũng theo về.
Phạm Ngọc vốn là sư ở chùa Đồ Sơn, tự xưng được trời ban kiếm ấn, rồi mạo xưng là La Bình Vương, đặt niên hiệu Vĩnh Ninh, cùng với Phạm Thiện, Ngô Trung, Lê Hành, Đào Thừa làm loạn, phong cho họ làm tướng quốc, tư không, đại tướng quân, tấn công cướp phá thành ấp. Bân phải chia quân đông tây đi dẹp, không lúc nào rảnh tay.
Triều đình thấy giặc lâu ngày chưa dẹp yên, năm thứ mười tám sai Vinh Xương bá Trần Trí 榮昌伯陳智 làm tả tham tướng đến giúp. Lại ban chiếu trách Bân rằng: "Giặc phản loạn như Phan Liêu, Lê Lợi, Xa Tam, Nùng Văn Lịch đến nay chưa bắt được, quân khi nào mới nghỉ, dân khi nào mới yên. Nên mở rộng kế sách, sớm tâu dẹp yên." Bân hoảng sợ, thúc giục các tướng truy dẹp. Mùa thu năm sau, giặc đều bị tiêu diệt, chỉ còn Lê Lợi chưa bắt được.
Lê Lợi ban đầu làm quan cho Trần Quý Khoáng, giữ chức Kim Ngô tướng quân. Sau đó quy thuận triều đình, được bổ nhiệm làm tuần kiểm huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hóa, nhưng vì không được trọng dụng nên ôm hận trong lòng. Khi đại quân rút về, ông ta liền nổi dậy, tự xưng là Bình Định Vương, phong em là Lê Thạch làm tướng quốc, cùng bè đảng như Đoàn Mãng, Phạm Liễu, Phạm Yến đem quân cướp phá.
Quan quân tiến đánh, bắt sống được Phạm Yến và những kẻ khác, còn Lê Lợi thì trốn thoát. Một thời gian sau, ông ta chiếm giữ đồn Khả Lam để cướp bóc. Các tướng Phương Chính và Sư Hựu đánh dẹp, bắt được các tướng giả như Nguyễn Cá Lập, còn Lê Lợi lại trốn sang Lào.
Khi các tướng Minh trở về (Đông Đô), Lê Lợi lén quay lại, giết tuần kiểm ở Ngọc Cục. Sau đó lại ra cướp phá Lỗi Giang, mỗi lần bị truy kích thì lại trốn thoát. Đến khi các nhóm giặc khác đều bị tiêu diệt, Lê Lợi ẩn náu rất sâu.
Tướng Lý Bân tâu rằng: “Lê Lợi trốn sang Lào, nước Lào xin quan quân đừng tiến vào, hứa sẽ tự điều binh bắt Lê Lợi. Nhưng lâu rồi vẫn không thấy hành động, tình hình thật khó đoán.” Vua nghi ngờ Lào che giấu giặc, bèn sai Bân đưa sứ giả của Lào về kinh để tra hỏi. Sau đó, Lào mới trục xuất Lê Lợi.
Mùa xuân năm thứ hai mươi (1422), Bân mất, triều đình ra chiếu lệnh cho Trí thay Bân. Năm thứ hai mươi mốt (1423), Trí truy đuổi Lê Lợi đến huyện Xa Lai, châu Ninh Hóa, đánh bại ông ta, nhưng Lê Lợi lại trốn đi xa.
Mùa thu năm sau (1424), Trí tâu rằng: "Lê Lợi ban đầu trốn sang Lào, sau bị trục xuất, quay về huyện Khôi. Quan quân tiến đánh, thủ lĩnh của ông ta là Phạm Ngưỡng cùng 1.600 người cả nam lẫn nữ đã đầu hàng. Lê Lợi tuy xin hàng, nguyện đem thuộc hạ quy thuận, nhưng vẫn cố thủ ở Nga Lạc không ra, còn chế tạo binh khí chưa dứt, chắc chắn sẽ lại phải tiến quân."
Tấu chương vừa đến, đúng lúc Minh Nhân Tông lên ngôi, ban đại xá thiên hạ, nên ra chiếu bảo Trí phải khéo vỗ về. Nhưng Lê Lợi đã sớm đánh chiếm châu Trà Lung, đánh bại quân của Phương Chính, giết chết chỉ huy Ngũ Vân.
Khi Lê Lợi chưa phản loạn, từng có quan hệ tốt với hoạn quan Sơn Thọ 山壽, người trấn giữ vùng đó. Đến lúc này, Sơn Thọ trở về triều, hết lời nói rằng Lê Lợi và mình có lòng tin cậy lẫn nhau, nếu được cử đi khuyên bảo thì chắc chắn Lê Lợi sẽ quy thuận.
Vua nói: “Tên giặc này xảo trá, nếu bị hắn lừa thì thế lực của hắn sẽ càng mạnh, khó mà chế ngự.” Sơn Thọ dập đầu thưa: “Nếu thần đi khuyên mà Lê Lợi không chịu về, thần xin chịu muôn lần chết.” Vua gật đầu, sai Sơn Thọ mang chiếu thư phong Lê Lợi làm Tri phủ Thanh Hóa, hết sức an ủi và vỗ về.
Chiếu vừa ban xuống, Lê Lợi đã đánh chiếm Thanh Hóa, giết đô chỉ huy Trần Trung. Dù nhận được chiếu thư, Lê Lợi vẫn không có ý hàng phục, chỉ mượn cớ vỗ về quan lại địa phương, giả vờ nói đợi trời thu mát sẽ đến nhận chức, nhưng thực chất vẫn tiếp tục cướp phá không ngừng.
Lúc đó, nhà Minh đổi niên hiệu thành Hồng Hy, cho đúc ấn “Chinh Di Phó Tướng quân” để phân phát cho các tướng trấn giữ biên cương. Trí được trao ấn này, lại được lệnh cho An Bình bá Lý An đến hỗ trợ. Nhưng Trí vốn không có tài cầm quân, sợ giặc, nên mượn cớ vỗ về để che mắt triều đình, lại bất hòa với Phương Chính, nên đóng quân không tiến.
Giặc ngày càng không kiêng dè, lại vây châu Trà Lung lần nữa, Trí và các tướng chỉ ngồi nhìn không cứu. Qua bảy tháng, trong thành hết lương, tuần án ngự sử tâu lên, nhưng khi tấu đến thì Nhân Tông đã băng hà.
Đầu thời Minh Tuyên Tông, có chiếu trách Trí và các quan Tam ty. Nhưng Trí và đồng sự vẫn không để tâm, khiến Trà Lung thất thủ, tri châu Cầm Bành 琴彭 tử trận.
Thượng thư phụ trách hai ty Bố Chính là Trần Hiệp 陳洽 tâu rằng: “Lê Lợi tuy xin hàng, nhưng trong lòng vẫn hai lòng. Sau khi chiếm Trà Lung, lại kết thân với thổ quan Ngọc Ma và tù trưởng Lào để cùng làm điều ác. Ban đầu nói đợi trời thu mát, nay thu đã qua, lại viện cớ có oán với tham chính Lương Nhữ Hốt 梁汝笏, xin đổi sang làm tri châu Trà Lung. Đồng thời sai bè đảng như Phan Liêu, Lộ Văn Luật đến các châu Gia Hưng, Quảng Oai chiêu mộ quân lính, thế lực ngày càng lớn mạnh. Xin triều đình lập tức sai tổng binh tiến quân dẹp loạn.”
Tấu trình lên, triều đình hạ chiếu nghiêm trách, ra hạn đến mùa xuân năm sau phải bình định được giặc. Trí lúc này mới sợ, cùng Chính tiến quân đến Cả Lưu Quan, nhưng bị đánh bại, rút về Trà Lung lại thua nữa.
Phương Chính thì dũng cảm nhưng thiếu mưu lược, Trí thì nhút nhát lại đa nghi, vốn không hợp nhau. Còn Sơn Thọ thì chỉ lo chiêu dụ, giữ quân ở Nghệ An không chịu cứu viện, nên liên tiếp thất bại.
Mùa xuân năm đầu niên hiệu Tuyên Đức (1426), sự việc được tâu lên, triều đình lại hạ chiếu nghiêm trách. Lúc đó, thủ lĩnh chính vẫn chưa bị dẹp yên, mà các nhóm giặc nhỏ lại nổi lên như ong vỡ tổ. Ở Mỹ Lưu có Phan Khả Lợi giúp giặc, Chu Trang ở Tuyên Hóa, Hoàng Am ở Thái Nguyên liên kết với giặc Hồng Y ở châu Ninh Viễn, Vân Nam, cướp phá dữ dội.
Vua ra chiếu lệnh cho Mộc Thạnh đi dẹp Ninh Viễn, lại điều 15.000 quân từ các vệ ở Tây Nam cùng 3.000 lính nỏ đến Giao Chỉ, đồng thời ra lệnh cho nước Lào không được chứa chấp kẻ phản loạn.
Tháng tư, phong Thành Sơn hầu Vương Thông làm Chinh Di tướng quân, Đô đốc Mã Anh làm tham tướng, đem quân đi đánh Lê Lợi. Cách chức Trần Trí và Phương Chính, cho làm sự quan (chức quan phụ trách công việc cụ thể).
Vương Thông chưa đến nơi thì giặc đã đánh vào Thanh Hóa. Phương Chính không ra đánh, nhưng đô chỉ huy Vương Diễn xuất quân đánh bại được giặc. Triều đình ban đại xá cho tội nhân ở Giao Chỉ, Lê Lợi và Phan Liêu xin hàng cũng được phong chức. Đồng thời đình chỉ việc thu mua vàng bạc, hương liệu, mong làm dịu tình hình, nhưng giặc vẫn không hối cải.
Phương Chính thúc quân tiến đánh, nhưng Lý An cùng các đô chỉ huy Vu Toản, Tạ Phụng, Tiết Tụ, Chu Quảng đều bỏ chạy trước, khiến Chính thất bại, tất cả bị giáng làm sự quan, phải lập công chuộc tội.
Chẳng bao lâu sau, Trần Trí sai đô chỉ huy Viên Lượng đánh giặc Lê Thiện ở châu Quảng Oai, định vượt sông thì thổ quan Hà Gia Kháng báo có phục binh. Lượng không nghe, sai chỉ huy Đào Sâm, Tiền Phụ vượt sông, cả hai đều trúng phục kích tử trận, Lượng cũng bị bắt.
Lê Thiện sau đó chia quân làm ba đường đánh vào Giao Châu. Đạo đánh Hạ Quan bị đô đốc Trần Tuấn đánh bại, đạo đánh Tiểu Môn ở Biên Giang bị Lý An đánh bại, Lê Thiện phải rút lui trong đêm.
Vương Thông nghe tin, cũng chia quân làm ba đường xuất kích. Mã Anh đánh bại giặc ở Thanh Oai, rồi đến Thạch Thất hội quân với Thông, cùng tiến đến Ninh Kiều, Ứng Bình. Quân lính phải hành quân trong bùn lầy, gặp phục binh nên đại bại. Thượng thư Trần Hiệp tử trận, Vương Thông cũng bị thương ở sườn, phải rút lui.
Lê Lợi đang ở Nghệ An nghe tin, liền thúc quân đến Thanh Đàm, tấn công Bắc Giang, rồi tiến vây Đông Quan. Vương Thông vốn không có chiến công, chỉ vì cha là Vương Chân chết trận nên được phong tước. Triều đình không biết ông bất tài, lầm lẫn dùng người. Một trận thua khiến ông mất hết tinh thần, hành động rối loạn, không tuân theo mệnh lệnh triều đình, tự ý cắt đất từ Thanh Hóa trở vào nam giao cho giặc, rút hết quan lại, quân dân về giữ Đông Quan.
Chỉ có tri châu Thanh Hóa là La Thông không tuân lệnh, Lê Lợi chuyển quân đến đánh nhưng không hạ được. Giặc lại chia một vạn quân vây ải Lưu Quan, nhưng bách hộ Vạn Tông dũng cảm phản kích, khiến chúng phải rút lui.
Vua nghe tin Vương Thông thất bại thì vô cùng kinh hãi, liền phong An Viễn hầu Liễu Thăng làm tổng binh, Bảo Định bá Lương Minh làm phó, dẫn quân đi đánh. Lại phong Mộc Thạnh làm Chinh Nam tướng quân, Hưng An bá Từ Hanh và Tân Ninh bá Đàm Trung làm tả, hữu phó tướng quân, từ Vân Nam tiến quân. Hai đạo quân cộng hơn bảy vạn người. Đồng thời ra chiếu lệnh cho Vương Thông cố thủ, chờ Liễu Thăng đến.
Năm thứ hai (1427) mùa xuân, Lê Lợi xâm phạm Giao Châu. Vương Thông giao chiến, chém được tên ngụy thái giám Lê Bí cùng các quan Thái úy, Tư đồ, Tư không, thu được hàng vạn thủ cấp. Lợi kinh hoàng bỏ chạy. Các tướng Minh xin thừa thắng truy kích Lợi, nhưng Thông chần chừ ba ngày. Giặc biết Thông nhút nhát, lại lập trại, đào hào, tung quân đi cướp bóc khắp nơi. Tháng ba, triều đình lại phát ba vạn ba nghìn quân, do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy đi đánh. Giặc chia quân vây Khâu Ôn, Đô chỉ huy Tôn Tụ cố sức chống cự. Trước đó, giặc cho rằng sông Xương Giang là đường đi lại chính yếu của đại quân nên huy động hơn tám vạn người đến tấn công, Đô chỉ huy Lý Nhậm cùng các tướng liều chết chống trả, giết được rất nhiều giặc. Đến tháng chín, các tướng do dự không cứu viện, giặc sợ đại quân của Thăng đến nên càng đánh gấp. Mùa hạ tháng tư, thành thất thủ, Lý Nhậm tử trận. Lúc ấy giặc vây Giao Châu đã lâu, Thông đóng cửa thành không dám ra, giặc càng khinh thường, gửi thư xin hòa. Thông muốn chấp thuận, triệu tập mọi người bàn bạc. Án sát sứ Dương Thì Tập nói: “Phụng mệnh đánh giặc, nếu lại hòa với chúng rồi tự ý rút quân, thì làm sao tránh được tội?” Thông nổi giận, lớn tiếng quát mắng, mọi người không dám nói gì, bèn đem thư của Lợi tâu lên triều đình.
Thăng phụng mệnh đã lâu, đợi các đạo quân hội đủ, đến tháng chín mới đến được ải Lưu Quan. Lợi vì đã có lời hứa với Thông, bèn giả xưng là họ Trần còn hậu duệ, dẫn các thủ lĩnh lớn nhỏ viết thư đến quân của Thăng, xin bãi binh để lập con cháu họ Trần. Thăng không mở thư, sai sứ tâu lên triều đình. Không lâu sau, Thăng tiến quân đến gần đèo Đảo Mã, bị vây hãm và tử trận, quân phía sau cũng lần lượt chết hết. Thông nghe tin, vô cùng sợ hãi, bèn triệu tập đông đủ quân dân quan lại, ra đến bến sông Hạ, lập đàn thề với Lợi, hứa sẽ rút quân. Sau đó sai quan cùng sứ giả của giặc dâng biểu và lễ vật tiến cống. Quân của Mộc Thạnh đến Thủy Vĩ, đang đóng thuyền chuẩn bị tiến quân, nghe tin Thông đã nghị hòa, cũng rút lui, giặc thừa cơ đánh úp, đại bại.
Hồng Lô Tự dâng thư của giặc gửi cho Thăng, đại ý nói: “Khi Cao Hoàng Đế (Chu Nguyên Chương) lên ngôi, An Nam là nước đầu tiên triều cống, được đặc biệt ban thưởng, ban cho ngọc ấn. Sau đó, giặc Lê (Hồ Quý Ly) tiếm ngôi và giết vua, Thái Tông Hoàng Đế (Chu Đệ) khởi binh đánh dẹp, tìm kiếm con cháu họ Trần. Nhưng họ Trần vì tránh họa nên đã trốn chạy xa, không thể tìm được. Nay có người cháu còn sót lại tên là Cảo 暠, ẩn náu ở Lão Qua 20 năm, nhân dân bản quốc không quên ân đức của tiên vương, đã tìm được ông ấy. Nếu được chuyển lời lên triều đình, theo chiếu chỉ nối dõi của Thái Tông Hoàng Đế mà trả lại tước vị và đất đai, thì không chỉ là phúc của một dòng họ Trần, mà còn là hạnh phúc của muôn dân nơi man di.”
Vua nhận được thư, gật đầu. Hôm sau, biểu của Cảo cũng đến, xưng là “thần Cảo, cháu đích tôn ba đời của tiên vương Phủ 暊[15]”, lời lẽ tương tự như thư của Lợi. Vua biết rõ là giả mạo, nhưng muốn nhân đó để dừng binh đao, nên chấp thuận.
Ban đầu, khi vua mới lên ngôi, từng bàn với Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh về việc Giao Chỉ, đã có ý muốn bỏ. Đến lúc này, vua đưa biểu tấu ra cho các đại thần xem, bày tỏ ý định bãi binh để yên dân. Sĩ Kỳ và Vinh hết lòng tán thành, chỉ có Kiển Nghĩa và Hạ Nguyên Cát là không đồng ý. Nhưng ý vua đã quyết, các đại thần không dám tranh luận.
Ngày mồng một tháng mười một, vua sai Lễ bộ Tả thị lang Lý Kỳ và Công bộ Hữu thị lang La Nhữ Kính làm chánh sứ, Hữu thông chính Hoàng Kỵ và Hồng Lô Khanh Từ Vĩnh Đạt làm phó sứ, mang chiếu thư sang vỗ về nhân dân An Nam, đại xá mọi tội lỗi, cùng họ làm lại từ đầu, yêu cầu trình rõ thực trạng con cháu họ Trần để tâu lên. Đồng thời dụ Lợi về ý nghĩa “hưng diệt kế tuyệt” (dựng lại dòng họ đã mất), và truyền cho Thông cùng các quan tam ti triệt thoái toàn bộ quân dân về phương Bắc.
Chiếu chỉ chưa đến, Vương Thông đã bỏ Giao Chỉ, theo đường bộ trở về Quảng Tây. Trung quan Sơn Thọ, Mã Kỳ cùng các quan tam ti theo đường thủy trở về Khâm Châu. Tổng số người trở về chỉ còn tám vạn sáu nghìn (86.000), số bị giặc giết hoặc bị bắt giữ không thể đếm xuể. Thiên hạ đều oán trách Thông vì bỏ đất khiến dân chịu tai họa, nhưng vua vẫn không nổi giận.
Mùa hạ năm thứ ba, Thông và các người khác về đến kinh đô, các quan văn võ đồng lòng dâng sớ luận tội họ. Triều đình mở cuộc thẩm vấn, tất cả đều nhận tội. Sau đó, cùng với Trần Trí, Mã Anh, Phương Chính, Sơn Thọ, Mã Kỳ và Bố chánh sứ Dịch Khiêm, đều bị kết án tử hình, giam vào ngục, tịch thu gia sản. Nhưng vua cuối cùng không xử tử, chỉ giam lâu dài chờ quyết định.
Mã Kỳ tàn ác, gây biến loạn, tội nặng nhất; còn Dặc Khiêm thực sự vô tội, nhưng lại bị xử cùng một án, khiến dư luận thời đó bất bình. Các đại thần lại dâng sớ buộc tội Mộc Thạnh, Từ Hanh, Đàm Trung vì chậm trễ, làm mất quân, làm nhục quốc thể, nhưng vua không truy cứu.
Khi Mã Kỳ và các sứ thần trở về triều, Lợi sai sứ dâng biểu tạ ơn, giả nói rằng Cảo đã mất vào tháng Giêng, họ Trần đã tuyệt tự, người trong nước suy tôn Lợi giữ nước, kính cẩn chờ lệnh triều đình. Vua cũng biết đó là lời dối trá, không muốn lập tức phong tước, lại sai Nhữ Kính và Vĩnh Đạt đến dụ Lợi cùng thuộc hạ, lệnh họ tìm kiếm hậu duệ họ Trần, đồng thời phải trả lại toàn bộ quan lại, dân chúng và gia quyến đã bị bắt giữ.
Mùa xuân năm sau (1429), Nhữ Kính và các sứ thần trở về, Lợi lại nói họ Trần không còn ai, xin triều đình phong người khác. Nhân đó, Lợi dâng cống sản vật và một tượng người bằng vàng thay cho thân mình. Lại nói: “Thần có một đứa con gái chín tuổi, gặp loạn mà thất lạc, sau biết Mã Kỳ mang về làm cung nữ, thần không nén được tình cha con, mạo muội xin lại.” Vua biết rõ rằng nếu họ Trần còn người, Lợi cũng sẽ không nói ra, nhưng vì việc phong tước cho Lợi chưa có danh nghĩa chính đáng, nên lại sai Mã Kỳ và Nhữ Kính tiếp tục dụ bảo tìm kiếm, đồng thời báo rằng con gái Lợi đã chết vì bệnh.
Mùa xuân năm thứ năm (1430), Kỳ và các sứ thần trở về, Lợi sai sứ dâng cống vàng bạc, đồ quý và sản vật địa phương, lại dùng lời lẽ hoa mỹ dâng tấu, đồng thời trình tấu của các thủ lĩnh và bô lão xin cho Lợi tạm nắm quyền quốc chính. Khi sứ thần trở về, vua lại truyền dụ yêu cầu tiếp tục tìm kiếm hậu duệ họ Trần và trả người Trung Quốc về nước, nhưng lời lẽ không còn cứng rắn như trước.
Mùa hạ năm sau (1431), Lợi lại sai sứ sang tạ tội, dùng lời lẽ khéo léo để đối đáp về hai việc ấy, lại dâng tấu của các thủ lĩnh và bô lão, tiếp tục xin phong cho Lợi. Vua bèn chấp thuận, sai Lễ bộ Hữu thị lang Chương Sướng và Hữu thông chính Từ Kỳ mang chiếu thư và ấn tín, phong cho Lợi tạm quyền cai quản quốc sự An Nam. Lợi sai sứ mang biểu cùng vàng bạc, đồ quý theo Chương Sướng và các sứ thần vào triều cống.
Tháng hai năm thứ bảy (1432), sứ thần đến kinh sư, khi trở về, Lợi và các sứ thần đều được ban thưởng. Tháng tám năm sau lại sang triều cống, vua sai Binh bộ Thị lang Từ Kỳ cùng đi, dụ bảo đạo lý thuận theo trời, giữ yên dân. Năm ấy, Lợi qua đời.[16]
Tuy Lợi đã nhận chiếu mệnh của triều đình, nhưng ở trong nước vẫn tự xưng là hoàng đế, đặt niên hiệu là “Thuận Thiên”, lập hai kinh đô Đông và Tây, chia nước làm 13 đạo: gồm Sơn Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, An Bang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Minh Quang, Lạng Hóa, Thanh Hoa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam. Mỗi đạo đều đặt cơ quan Thừa chính ty, Hiến sát ty và Tổng binh ty, mô phỏng theo ba ty của Trung Quốc. Đông Đô đặt tại phủ Giao Châu, Tây Đô đặt tại phủ Thanh Hoa. Lập đủ trăm quan, mở trường học, lấy hai khoa Kinh nghĩa và Thơ phú để tuyển chọn nhân tài, phong hóa rực rỡ mang đậm nét văn minh Hoa Hạ. Lợi tiếm xưng ngôi vị được sáu năm, sau tự đặt thụy hiệu là Thái Tổ.
Con là Lân 麟 kế vị, Lân còn có tên là Long 龍[17]. Từ đó, các quân trưởng của nước này đều có hai tên, lấy một tên dùng để tấu trình với triều đình nhà Minh[18], việc cống nạp vẫn đều đặn như lệ thường. Lân sai sứ báo tang, đồng thời lệnh cho Thị lang Chương Sưởng và Hành nhân Hầu Tiến thay mặt điều hành quốc sự. Năm sau lại sai sứ vào triều cống để tạ ơn.
Năm Chính Thống nguyên niên (1436), tháng Tư, do Tuyên Tông băng hà, [An Nam] sai sứ vào triều dâng hương. Lại vì Anh Tông lên ngôi, tôn hiệu Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu được xác lập, cũng sai sứ dâng biểu chúc mừng và tiến cống sản vật địa phương. Tháng Nhuận Sáu lại tiếp tục tiến cống.
Vua (nhà Minh) thấy họ Trần đã tuyệt tự, muốn lập Lân chính vị, nên hạ lệnh bàn nghị trong triều, mọi người đều cho là hợp lẽ. Bèn sai Hữu Thị lang bộ Binh là Lý Úc và Tả Thông chính là Nại Hanh mang sắc thư và ấn phong, sắc phong Lân làm An Nam quốc vương. Năm sau (1437), Lân sai sứ vào triều để tạ ơn.
Lúc đó, thổ quan châu Tư Lãng ở An Nam đánh chiếm hai châu An Bình và Tư Lăng thuộc Quảng Tây, chiếm giữ hai động và hai mươi mốt thôn. Vua (nhà Minh) sai Cấp sự trung là Thang Nại và Hành nhân Cao Dần mang sắc thư lệnh cho Lân trả lại đất đã chiếm. Lân tuân mệnh, sai sứ tạ tội, đồng thời tố cáo thổ quan An Bình và Tư Lăng xâm lược Tư Lãng. Vua lệnh cho quan trấn thủ nghiêm khắc răn đe.
Năm thứ bảy (1442), sứ thần An Nam trở về, vua ban cho mũ da, áo bào dệt kim tuyến để ban thưởng cho quốc vương của họ. Năm đó, Lân qua đời, trộm truy tôn thụy hiệu là Thái Tông. Đổi niên hiệu hai lần: năm Thiệu Bình thứ sáu và năm Đại Bảo thứ ba.
Con là Tuấn 濬 kế vị, còn có tên là Cơ Long 基隆[19], sai sứ sang báo tang (về cái chết của cha). Triều đình nhà Minh sai Quang Lộc Thiếu Khanh Tống Kiệt và Binh Khoa Đô Cấp Sự Trung Tiết Khiêm mang tiết việt đến sách phong làm quốc vương. Tuấn 濬 sai tướng xâm lược nước Chiêm Thành, chiếm cảng Tân Châu 新州港[20], bắt vua của họ là Ma Ha Bôn Cai 摩訶賁該 đem về. Hoàng đế Minh lập vua mới là Ma Ha Quý Lai 摩訶貴來, ra lệnh cho sứ giả An Nam khuyên Tuấn 濬 trả lại vua cũ. Tuấn 濬 không tuân chỉ dụ, tiếp tục xâm lược, bắt dân hơn ba vạn ba nghìn người, nước Chiêm Thành dâng biểu kiện cáo.
Năm Cảnh Thái nguyên niên (1450), triều đình nhà Minh ban chiếu răn dạy Tuấn, nhưng Tuấn vẫn không tuân theo. Năm thứ tư (1453), Tuấn sai sứ sang chúc mừng việc lập Hoàng Thái tử. Năm Thiên Thuận nguyên niên (1457), Tuấn lại sai sứ sang triều cống, xin ban áo mũ vua (cửu chương cửu trượng) như lệ của Triều Tiên, nhưng không được chấp thuận. Sứ giả của Tuấn xin đổi sản vật lấy sách vở, thuốc men, thì được chấp thuận. Năm thứ hai (1458), Tuấn sai sứ chúc mừng Anh Tông phục vị. Đến tháng mười năm thứ ba (1459), người anh cùng cha khác mẹ là Lạng Sơn vương tên là Tông 琮[21] giết Tuấn để tự lập làm vua.
Tuấn từng đặt hai niên hiệu: Đại Lợi năm thứ 11, và Diên Ninh năm thứ 6. Sau khi mất, Tuấn được truy tôn là Nhân Tông. Tông 琮, còn có tên là Nghi Dân 宜民, cướp ngôi được chín tháng, đổi niên hiệu là Thiên Dữ, nhưng bị người trong nước giết chết. Nghi Dân bị giáng làm Lệ Đức hầu 厲德侯. Sau đó, em trai của Tuấn là Hạo 灝 được lập kế vị. Hạo còn có tên là Tư Thành[22].
Ban đầu, Tông giết Tuấn rồi tâu lên triều đình rằng Tuấn chết đuối khi đi chơi hồ. Triều đình nhà Minh không biết sự thật, định sai quan đến viếng. Tông sợ sứ giả đến sẽ phát hiện chân tướng, nên nói rằng theo lễ thì người chết đuối không được viếng, không dám làm phiền thiên sứ, nên hoàng đế bèn thôi. Sứ giả nói Tuấn không có con, xin phong Tông làm vua. Triều đình sai Thông chính tham nghị Doãn Mân và Lễ khoa cấp sự trung Vương Dự đến phong. Nhưng chưa vào đến biên giới thì nghe tin Tông đã bị giết, Hạo lên ngôi, nên quay về.
Hạo nhiều lần sai sứ sang triều cống, xin được phong vương. Các quan lễ nghi ngờ là có giả dối, xin lệnh cho quan trấn thủ Quảng Tây xác minh rồi tâu lên, được chấp thuận. Sứ giả tâu rằng: “Theo lễ, khi sống thì được phong, khi chết thì được tế. Nay cái chết của Tuấn đã rõ, xin ban lễ tế.” Vậy nên triều đình sai hành nhân đến tế. Đến tháng hai năm thứ sáu (1462), triều đình sai Thị độc học sĩ Tiền Phổ và Cấp sự trung Vương Dự đến phong Hạo làm quốc vương.
Khi Minh Hiến Tông lên ngôi, sai Thượng bảo khanh Lăng Tín và Hành nhân Thiệu Chấn ban tặng gấm vóc và tiền tài cho vua (Hạo) và hoàng hậu. Hạo sai sứ sang triều cống, nhân đó xin ban mũ miện (mũ vua), nhưng không được chấp thuận, chỉ được ban mũ da, áo mũ thường và đai sừng tê. Tháng tám năm Thành Hóa nguyên niên (1465), do Anh Tông băng hà, triều đình sai sứ sang dâng hương, lệnh cho Hạo đến lăng Dụ làm lễ.
Hạo là người kiêu hùng, tự cho nước mình giàu có, binh mạnh, thường tự ý làm lớn. Năm thứ tư (1468), Hạo xâm chiếm vùng Bằng Tường thuộc Quảng Tây. Vua Minh nghe tin, liền ra lệnh cho quan trấn thủ phải cẩn thận phòng bị. Năm thứ bảy (1471), Hạo đánh chiếm Chiêm Thành, bắt được vua là Bàn La Trà Toàn 盤羅茶全; hơn ba năm sau lại đánh tiếp, bắt vua Bàn La Trà Duyệt 盤羅茶悅, rồi đổi tên nước ấy (Chiêm Thành) thành Giao Nam Châu 交南州, đặt quân trấn giữ.
Đường triều cống của An Nam vốn đi qua Quảng Tây. Lúc đó, viên thái giám trấn thủ Vân Nam là Tiền Năng tham lam, sai chỉ huy Quách Cảnh mang chiếu thư đến lấy hàng hóa. Hạo vốn có ý muốn dò xét Vân Nam, bèn lấy cớ áp giải tội nhân ở Long Châu (Quảng Tây) làm lý do, theo Quách Cảnh mượn đường Vân Nam để vào kinh, yêu cầu hơn sáu trăm người phu, lại còn phát binh đi theo sau, khiến Vân Nam náo loạn.
Bộ Binh tâu rằng Vân Nam không phải là đường cống, tội nhân ở Long Châu nên giải về Quảng Tây, không cần đưa đến kinh. Vì vậy triều đình ra lệnh cho quan trấn thủ gửi công văn răn bảo, đồng thời tăng cường phòng bị biên giới.
Sau khi chiếm được Bằng Tường và diệt Chiêm Thành, Hạo lại xâm lấn Quảng Đông ở các nơi Quỳnh Châu 瓊 và Lôi Châu 雷, cướp bóc hồ ngọc trai. Các vùng Long Châu, Hữu Bình thuộc Quảng Tây, và Lâm An, Quảng Nam, Trấn An thuộc Vân Nam cũng nhiều lần báo động. Triều đình ra chiếu hỏi tội, nhưng Hạo thường dùng lời lẽ quanh co để đối đáp. Triều đình trung ương chủ trương nhân nhượng, dù nhiều lần ban chiếu dụ nhưng không lời nào nghiêm khắc. Hạo càng thêm khinh nhờn, không chút sợ sệt, nói rằng: “Vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn xâm phạm đường Hóa Châu, bị em là Bàn La Trà Duyệt giết rồi tự lập. Khi sắp được phong thì lại bị con là Trà Chất Đài 茶質苔 giết. Nước ấy tự loạn, không phải lỗi của thần Hạo.”
Triều đình biết rõ là dối trá nhưng không thể truy cứu, chỉ khuyên nên trả lại đất đai. Hạo dâng tấu rằng: “Chiêm Thành không phải là vùng đất màu mỡ, dân ít của tích trữ, đồng ruộng không có dâu tằm, núi không có vàng ngọc, biển không có cá muối, chỉ sản xuất ngà voi, sừng tê, gỗ mun, trầm hương. Chiếm được đất thì không thể ở, được dân thì không thể dùng, được của thì không thể làm giàu. Vì vậy thần không hề xâm chiếm Chiêm Thành. Nay hoàng đế ra chiếu bảo thần trả lại đất, xin cử sứ thần đến phân định ranh giới, để hai nước được yên ổn biên cương, đó là điều thần vô cùng mong muốn.”
Lúc đó, Chiêm Thành đã bị chiếm từ lâu, mà lời lẽ của Hạo lại dối trá như vậy.
Trước kia, sứ thần An Nam khi vào triều cống thường mang theo nhiều hàng hóa riêng, đi qua Bằng Tường và Long Châu, thiếu người vận chuyển nên thường gây ra xung đột. Nhân dịp cử sứ sang chúc mừng việc lập Hoàng Thái tử, triều đình ban chiếu nghiêm cấm việc này.
Mùa đông năm thứ 15 (1479), Hạo sai hơn 800 binh lính vượt biên giới Mông Tự (thuộc Vân Nam), lấy cớ bắt giặc, tự ý dựng trại, xây nhà ở lại. Quan trấn thủ kiên quyết ngăn cản, mới chịu rút lui.
Sau khi phá được Chiêm Thành, Hạo càng thêm tham vọng, đích thân chỉ huy 9 vạn quân, mở ba đường núi, đánh phá Ai Lao 哀牢, xâm lấn Lão Qua 老撾, lại đại phá nước này, giết chết ba cha con quan Tuyên úy là Đao Bản Nhã 刀板雅, Lan 蘭 và Chưởng 掌. Người con út là Phạ Nhã Trại 怕雅賽 chạy sang Bát Bách (tức Lan Na) mới thoát.
Hạo lại tích trữ lương thực, luyện binh, ban chiếu giả cho Xa Lý 車里 (Che-li, tức Chiang Rai), triệu binh cùng đánh Bát Bách. Quân sĩ chết đột ngột hàng ngàn người, ai cũng nói là bị sét đánh. Bát Bách chặn đường rút lui, tập kích giết hơn một vạn người, Hạo mới chịu rút quân.
Vua Minh hạ lệnh bàn nghị, chỉ yêu cầu Bố chánh sứ Quảng Tây ra công văn bảo Hạo rút quân, còn các quan trấn thủ Vân Nam và Lưỡng Quảng thì tăng cường phòng bị biên giới.
Sau đó, Hạo lại nói rằng mình không xâm phạm Lào, và cũng không biết biên giới Bát Bách ở đâu, lời lẽ rất dối trá. Vua lại phải an ủi khuyên bảo, nhưng ông vẫn không tuân mệnh.
Mùa thu năm thứ 17 (1481), Malacca 滿剌加 cũng tố cáo bị xâm lấn. Vua Minh sai sứ đến khuyên bảo giữ hòa hiếu và bảo vệ quốc gia. Không lâu sau, sứ thần An Nam vào triều cống, xin được ban mũ áo như Xiêm La và Java 爪哇, vua đồng ý nhưng không lấy đó làm lệ.
Khi Hiếu Tông lên ngôi, sai Thị độc Lưu Tiễn ban chiếu dụ cho nước An Nam. Sứ thần của họ đến triều cống, vì đang có quốc tang lớn nên được miễn không phải vào yết kiến.
Năm Hồng Trị thứ ba (1490), lúc đó vua Chiêm Thành là Cổ Lai 古來 nhờ vào sức mạnh của triều đình nhà Minh mà được phục quốc, lại tiếp tục tố cáo An Nam xâm lấn. Thượng thư Bộ Binh là Mã Văn Thăng triệu sứ thần An Nam đến và nói: “Về bảo vua các ngươi, mỗi nước nên giữ lấy bờ cõi để hưởng thái bình. Nếu không, một khi triều đình nổi giận, thiên binh áp sát biên giới, như chuyện thời Vĩnh Lạc, vua các ngươi liệu có hối hận chăng?”
Từ đó, An Nam bắt đầu có phần e dè.
Năm Hồng Trị thứ 10 (1497), Hạo qua đời, được truy tôn thụy hiệu là Thánh Tông. Ông từng đặt hai niên hiệu: Quang Thuận năm thứ 10 và Hồng Đức năm thứ 28.
Con là Huy 暉 kế vị, tên khác là Tranh 鏳[23], sai sứ sang báo tang. Triều đình cử hành nhân Từ Dục đến tế. Sau đó ban cho Huy mũ da, áo mũ và đai sừng tê bằng vàng.
Sứ thần của Huy nói rằng: “Quốc vương được phong mà lễ phục lại không khác gì với quan lại, xin được đổi lễ ban.” Quan Lễ bộ tâu rằng: “An Nam tuy xưng vương, nhưng thực chất là thần dân của Trung Quốc. Vua mới lên ngôi, tất phải ban mũ da và áo mũ để giữ thể diện của một nước, đồng thời ban thêm thường phục phẩm cấp nhất để không quên nghĩa vụ thần phục Trung Quốc. Nay lời xin ấy làm rối loạn quy chế tổ tiên, không thể chấp thuận. Tuy nhiên, đây không phải lỗi của sứ thần, mà là do người thông dịch dẫn dắt sai trái, nên cần xử phạt.” Vua đặc biệt tha cho.
Năm thứ 17 (1504), Huy qua đời, được truy tôn là Hiến Tông, đặt niên hiệu là Cảnh Thống. Con là Khiên 𣽲 kế vị, tên khác là Kính Phủ 敬甫[24], nhưng chỉ bảy tháng sau thì mất, được truy tôn là Túc Tông. Em là Nghị 誼 kế vị, tên khác là Tuyền 璿[25].
Khi Vũ Tông lên ngôi, sai Tu soạn Luân Văn Tự và Cấp sự trung Trương Hoành đến ban chiếu dụ cho nước ấy. Nghị cũng sai sứ báo tang, lệnh cho quan lại làm lễ tế như thường lệ.
Năm Chính Đức thứ nhất (1506), Nghị được sắc phong làm vương. Nghị sủng ái và trọng dụng phe cánh bên ngoại là hai anh em Nguyễn Chủng và Nguyễn Bá Thắng, để họ tha hồ làm điều tàn ác, giết hại tông thân, đầu độc cả bà nội. Nguyễn Chủng và đồng bọn ỷ thế được sủng ái mà chiếm quyền, đến năm thứ tư (1509) thì ép Nghị tự sát, lập em là Bá Thắng lên thay, giáng Nghị làm Lệ Mẫn vương. Người trong nước như Lê Quảng và những người khác nổi dậy giết bọn chúng, lập cháu nội của Hạo là Trừu (Trửu, Chử) 晭[26] lên ngôi, đổi thụy hiệu của Nghị thành Uy Mục Đế. Nghị ở ngôi được bốn năm, đổi niên hiệu là Đoan Khánh. Trừu, tên khác là Oanh 瀅, đến năm thứ bảy (1512) thì được phong vương, nhưng lại làm nhiều điều bất nghĩa.
Năm thứ mười một (1516), quan tế lễ ở xã đường là Trần Cảo 陳暠 cùng hai con là Trần Bỉnh và Trần Thăng làm loạn, giết Trửu rồi tự lập làm vua. Cảo giả xưng là hậu duệ họ Trần, tự xưng là Đại Ngu Hoàng đế 大虞皇帝, đổi niên hiệu là Ứng Thiên, giáng Chử làm Linh Ẩn vương. Một đại thần của Trửu là đô lực sĩ Mạc Đăng Dung 莫登庸 ban đầu theo Cảo, sau cùng với đại thần họ Lê là Nguyễn Hoằng Dụ 阮弘裕 khởi binh đánh Cảo. Cảo thua chạy, Bỉnh và đồng đảng là Trần Thúy bị bắt. Cảo và Thăng chạy về hướng Lạng Sơn, chiếm giữ ba phủ Trường Ninh, Thái Nguyên và Thanh Tiết để tự bảo vệ.
Mạc Đăng Dung và các tướng lập con của Hạo 灝[27] là Huệ 譓[28] (cháu của Trửu) lên ngôi, đổi thụy hiệu của Trửu thành Tương Dực Đế. Trửu ở ngôi bảy năm, niên hiệu là Hồng Thuận. Huệ định xin phong vương, nhưng vì loạn lạc trong nước nên không thành. Mạc Đăng Dung có công, được phong làm Vũ Xuyên bá, nắm toàn bộ thủy lục quân đội. Sau khi nắm binh quyền, ông ngấm ngầm nuôi ý đồ khác.
Một đại thần họ Lê là Trịnh Tuy 鄭綏 cho rằng Huệ chỉ là vua bù nhìn, nên lập người trong họ là Dậu Bảng 酉榜 lên ngôi, rồi phát binh đánh kinh thành. Huệ bỏ chạy, Mạc Đăng Dung đánh bại quân của Tuy, bắt và giết Dậu Bảng, lại càng ỷ công mà chuyên quyền. Sau đó, ông ép mẹ của Huệ phải gả cho mình, đón Huệ về, tự xưng là Thái phó Nhân quốc công. Năm thứ mười sáu (1521), ông dẫn quân đánh Trần Cảo, Cảo thua chạy rồi chết.
Năm Gia Tĩnh thứ nhất (1522), Mạc Đăng Dung tự xưng là An Hưng vương, âm mưu giết Lê Huệ. Mẹ của Huệ biết được, báo tin, nên Huệ cùng cận thần là Đỗ Ôn Nhuận bí mật trốn thoát, ẩn náu ở Thanh Hoa. Mạc Đăng Dung lập em cùng cha khác mẹ của Huệ là Khoáng 懬[29] lên ngôi, rồi dời đô về phủ Trường Khánh ở Hải Đông.
Khi Thế Tông nhà Minh lên ngôi, sai Biên tu Tôn Thừa Ân và Cấp sự trung Vu Đôn sang ban chiếu dụ cho nước ấy. Khi đến Long Châu, nghe tin nước này đại loạn, đường sá không thông, nên phải quay về. Mùa hạ năm thứ tư (1525), Lê Huệ sai sứ đi đường vòng sang triều cống và xin phong vương, nhưng bị Mạc Đăng Dung ngăn cản. Mùa xuân năm sau (1526), Đăng Dung hối lộ phán quan Khâm Châu là Đường Thanh để xin phong cho Khoáng. Tổng đốc Trương Đằng bắt Đường Thanh, Thanh chết trong ngục.
Năm thứ sáu (1527), Mạc Đăng Dung sai phe cánh là Phạm Gia Mô giả làm chiếu nhường ngôi của Khoáng để cướp ngôi, đổi niên hiệu là Minh Đức, lập con là Mạc Phương Doanh 方瀛[30] làm Hoàng thái tử. Sau đó, ông đầu độc giết Khoáng, truy tôn là Cung Hoàng đế. Năm sau (1528), ông sai sứ sang triều cống, nhưng khi đến thành Lạng Sơn thì bị tấn công, phải quay về.
Năm thứ chín (1530), Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho Phương Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, dời đến Đô Trai và Hải Dương, làm hậu thuẫn cho Phương Doanh. Ông soạn ra 59 điều đại cáo, ban bố trong nước. Phương Doanh đổi niên hiệu là Đại Chính. Tháng 9 năm đó, Lê Huệ mất ở Thanh Hoa, nhà Lê diệt vong.
Mùa đông năm thứ mười lăm (1536), hoàng tử ra đời[31], triều đình định ban chiếu cho An Nam. Lễ quan Hạ Ngôn tâu rằng: “An Nam đã không triều cống suốt hai mươi năm. Quan trấn thủ Lưỡng Quảng cho rằng Lê Huệ và Lê Khoáng đều không phải là dòng chính đáng kế vị của Lê Trửu, còn Mạc Đăng Dung và Trần Cảo đều là gian thần tiếm quyền ở nước ấy. Nên sai quan đến điều tra, truy tìm tên vua tiếm ngôi để trị tội. Hơn nữa, trước đây sứ thần từng bị cản trở vì đường sá không thông, nay nên tạm hoãn việc sai sứ.”
Hoàng đế cho rằng An Nam phản nghịch đã rõ ràng, cần nhanh chóng sai quan đến điều tra, liền lệnh cho Hạ Ngôn cùng Bộ Binh bàn việc chinh phạt. Hạ Ngôn và Thượng thư Bộ Binh là Trương Toản cùng tâu rằng: “Gian thần tiếm ngôi, cướp nước, không chịu triều cống, nhất định phải đánh dẹp.” Họ xin trước hết sai hai quan Cẩm y đến xác minh thực hư, đồng thời lệnh cho quan trấn thủ Lưỡng Quảng và Vân Nam chuẩn bị binh lương, chờ ngày xuất quân. Vua đồng ý.
Liền sai Thiên hộ Đào Phụng Nghi và Trịnh Tỉ chia đường đến Quảng Tây và Vân Nam, truy xét tên vua tiếm ngôi, đồng thời lệnh cho các quan trấn thủ Tứ Xuyên, Quý Châu, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Giang Tây chuẩn bị binh lương, chờ điều động.
Thứ sử Bộ Hộ là Đường Tự dâng sớ, trình bày bảy điều không nên dùng binh, chi tiết có trong truyện riêng. Cuối sớ ông nói: “Tuy An Nam loạn lạc, nhưng vẫn nhiều lần dâng biểu, dâng cống phẩm, xin được vào cửa quan. Quan trấn thủ vì thấy tên không khớp nên từ chối. Như vậy là họ muốn triều cống mà không được, chứ không phải cố ý không cống.” Tấu chương được chuyển sang Bộ Binh, bộ này cũng đồng tình, xin đợi quan điều tra trở về rồi bàn tiếp.
Năm thứ mười sáu (1537), Lê Ninh 黎寧[32] nước An Nam sai người trong nước là Trịnh Duy Liêu 鄭惟僚 cùng đoàn sứ đến kinh đô, trình bày rõ việc Mạc Đăng Dung tiếm ngôi và giết vua. Họ nói: “Ninh chính là con của Lê Huệ. Sau khi Huệ mất, người trong nước lập Ninh làm Thế tôn, tạm nắm quyền quốc sự. Nhiều lần gửi thư cho các quan biên giới để cầu cứu, nhưng đều bị Đăng Dung chặn giết. Xin triều đình khởi binh hỏi tội, trừ kẻ phản quốc.”
Lúc đó, Nghiêm Tung đang nắm quyền ở Lễ bộ, cho rằng lời họ chưa thể tin hoàn toàn, xin giữ lại chờ quan điều tra trở về rồi mới quyết, và được chấp thuận. Sau đó, triều đình triệu Đào Phụng Nghi và các quan điều tra trở về, lệnh cho Lễ bộ và Binh bộ cùng các đại thần bàn bạc, liệt kê mười tội lớn của Mạc Đăng Dung, xin hoàng đế quyết đoán, định ngày xuất quân.
Liền triệu Hữu đô ngự sử Mao Bá Ôn đang ở nhà ra giúp quân vụ, sai Hộ bộ Thị lang Hồ Liễn và Cao Công Thiệu đi trước đến Vân Nam, Quý Châu và Lưỡng Quảng điều phối quân lương. Cử Đô đốc Thiêm sự Giang Hoằng và Ngưu Hoằng làm Tả, Hữu Phó Tổng binh, chỉ huy quân đội chinh phạt, còn đại tướng sẽ định sau. Binh bộ lại nhận chỉ dụ, trình bày 12 điều cần thiết khi dùng binh.
Chỉ riêng Thị lang Phan Trân phản đối, dâng sớ can gián mạnh mẽ. Vua nổi giận, cách chức ông. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phan Đán cũng dâng sớ xin đình chỉ mệnh lệnh trước, nói: “Triều đình đang chuẩn bị quân để hỏi tội, thì Mạc Đăng Dung lại sai sứ xin triều cống. Nên nhân đó mà chấp thuận, giữ quân sẵn sàng, quan sát tình hình, chờ nước ấy tự ổn định.” Nhưng Nghiêm Tung và Trương Toản đoán được ý vua, kiên quyết phản đối, nói rằng Lê Ninh đang ở Thanh Đô mưu khôi phục, còn Phan Đán lại nói nước ấy đã yên, xin triều cống, là điều không thể chấp nhận. Tấu chương của Phan Đán bị gác lại.
Tháng Năm, Mao Bá Ôn đến kinh, dâng sáu kế hoạch quân sự, cho rằng không thể cùng làm việc với Phan Đán, xin thay người, được vua khen ngợi. Nhưng khi Binh bộ trình kế hoạch, ý vua lại thay đổi, cho rằng chưa rõ thật giả về Lê Ninh, nên lệnh cho ba vùng biên phòng tùy cơ trấn an hoặc đánh dẹp, các đại thần phụ trách quân vụ và lương thảo đều tạm ngưng, Phan Đán được điều động trở lại, thay bằng Trương Kinh. Lúc đó, Ngự sử Từ Cửu Cao và Cấp sự trung Tạ Đình Thụy cũng dâng sớ bàn việc tu dưỡng, xin bãi bỏ việc chinh phạt phương Nam.
Tháng Tám, Tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh tâu rằng đã bắt được gián điệp của Mạc Đăng Dung và thu được bản “Đại cáo” giả do y soạn. Vua nổi giận, lệnh cho các quan trấn thủ tiếp tục thực hiện chiếu chỉ trước đó, tiến hành chinh phạt.
Lúc ấy, Văn Thịnh chiêu mộ được cựu thần họ Lê là Vũ Văn Uyên 武文淵, người này dâng bản đồ đường tiến quân, cho rằng Mạc Đăng Dung chắc chắn có thể bị đánh bại, nên trình lên triều đình. Án sát Quảng Đông là Dư Quang tâu rằng: “Mạc tiếm ngôi nhà Lê, cũng như Lê từng tiếm ngôi nhà Trần, không cần xét quá sâu. Chỉ nên trị tội không vào triều cống, buộc họ xưng thần và tuân thủ cống lễ, không cần viễn chinh khiến Trung Quốc hao tổn.” Ông nói đã sai sứ tuyên dụ, nếu họ chịu quy phục thì nên thu nhận. Vua cho rằng Dư Quang quá khinh suất, phạt cắt lương một năm.
Văn Thịnh liền gửi hịch sang An Nam, nói nếu Mạc Đăng Dung biết hối cải, chịu quy phục, nộp bản đồ nước, thì sẽ tha chết. Mạc Đăng Dung cùng con liền sai sứ dâng biểu xin hàng, đồng thời gửi thư cho Văn Thịnh và Quận công Mộc Triều Phụ, trình bày rằng họ Lê đã suy yếu, Trần Cảo phản nghịch, bản thân ông và con là Phương Doanh có công dẹp loạn, được dân quy phục, đất đai đã ghi trong “Nhất thống chí”, xin tha tội và xin được triều cống như lệ.
Triều Phụ và các quan tâu việc này vào tháng Ba năm thứ mười bảy (1538). Nhưng Lê Ninh, theo chiếu chỉ trước, lo sợ triều đình sẽ chấp nhận lời hàng của Mạc Đăng Dung, nên cũng dâng tấu trình bày rõ việc tiếm ngôi, giết vua, số lượng quân mã, đường thủy bộ tiến quân. Các tấu chương đều được chuyển sang Bộ Binh, triệu các đại thần bàn bạc. Mọi người đều cho rằng tội của họ Mạc không thể tha, nên lập tức tiến quân. Xin cử Hầu Châu là Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Mao Bá Ôn tiếp tục làm Tham tán, vua đồng ý.
Trương Kinh tâu rằng: “Đường tiến quân sang An Nam có sáu lộ, cần dùng 30 vạn quân, lương thực một năm cần 1,6 triệu quan, thêm chi phí đóng thuyền, mua ngựa, chế tạo binh khí, khao thưởng quân sĩ cũng cần hơn 70 vạn nữa. Huống chi quân ta phải vượt biển nóng, thế lực khác biệt, không thể không tính kỹ.” Khi tấu chương vừa dâng lên, Tri châu Khâm Châu là Lâm Hy Nguyên lại dâng sớ khẳng định có thể đánh được Mạc Đăng Dung. Bộ Binh không quyết được, lại xin triệu đình thần bàn tiếp.
Khi bàn xong, vua không hài lòng, nói: “Trẫm nghe các khanh bàn riêng đều cho rằng không nên khởi binh. Các khanh là người lo việc nước, mà không ai chủ trương, cứ đùn đẩy cho hội nghị. Đã không đồng lòng vì nước, thì thôi vậy. Cừu Loan và Mao Bá Ôn sẽ thay người khác.”
Năm thứ mười tám (1539), khi lập Hoàng thái tử, triều đình định ban chiếu cho An Nam. Đặc biệt triệu Hoàng Oản làm Thượng thư Lễ bộ, Học sĩ Trương Trị làm phó, sai đi sứ nước ấy. Vừa ban lệnh xong, thì Mạc Phương Doanh sai sứ dâng biểu xin hàng, kèm theo bản kê khai đất đai, hộ khẩu, xin để triều đình xử lý. Tổng cộng có 53 phủ, 49 châu, 176 huyện. Vua chấp nhận, giao cho Lễ bộ và Binh bộ cùng bàn bạc.
Đến tháng Bảy, Hoàng Oản vẫn chưa lên đường, vì làm trái ý vua nên bị cách chức, việc sai sứ cũng bị đình chỉ. Ban đầu, việc nghị bàn chinh phạt xuất phát từ Hạ Ngôn. Vua trách Hoàng Oản rồi, nổi giận nói: “Việc An Nam vốn do một người khởi xướng, rồi mọi người hùa theo. Lại dám chê trách triều đình, bàn bạc lộng ngôn. Nước này nên bỏ hay nên đánh, cần có quyết định rõ ràng. Binh bộ phải lập tức họp bàn và tâu lên.”
Vì thế, Trương Toản cùng các đại thần đều hoảng sợ, xin theo chiếu chỉ trước, tiếp tục sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn đi đánh phương Nam. Nếu Mạc Đăng Dung cha con chịu trói tay quy phục, không có ý đồ khác, thì sẽ tha chết. Vua đồng ý. Mạc Đăng Dung nghe tin, rất mừng.
Năm thứ mười chín (1540), Mao Bá Ôn và các tướng đến Quảng Tây, gửi hịch tuyên dụ ý triều đình rằng nếu quy phục thì sẽ tha tội. Lúc đó, Mạc Phương Doanh đã mất, Mạc Đăng Dung liền sai sứ xin hàng. Tháng Mười Một, ông dẫn theo cháu là Mạc Văn Minh 文明 cùng 42 viên quan, vào cửa ải Trấn Nam Quan, đầu trần chân đất, bò lết đến đàn tế, dâng biểu xin hàng. Mao Bá Ôn thay mặt triều đình tuyên đọc chiếu thư tha tội.
Sau đó, Đăng Dung lại đến doanh trại quân đội, bò lết hai lần lạy, dâng sổ sách đất đai, dân số, xin được theo chính thống nhà Minh, mãi mãi làm phiên thần. Mao Bá Ôn và các tướng tuyên bố uy đức của triều đình, lệnh cho ông trở về nước chờ chỉ.
Tin tấu dâng lên, vua rất vui mừng, ra lệnh giáng cấp nước An Nam thành “An Nam Đô thống sứ ty”, phong Mạc Đăng Dung làm Đô thống sứ, phẩm hàm tòng nhị phẩm, ban ấn bạc. Tất cả các chế độ mà ông từng tiếm xưng đều bị bãi bỏ, 13 đạo đổi thành 13 “Tuyên phủ ty”, mỗi nơi đặt quan Tuyên phủ, Đồng tri, Phó sứ, Thiêm sự, do Đô thống sứ quản lý, có quyền thăng giáng.
Quảng Tây mỗi năm cấp lịch “Đại Thống”, ba năm một lần triều cống làm lệ thường. Triều đình cũng lệnh điều tra thật giả về Lê Ninh, nếu đúng là hậu duệ họ Lê thì cắt bốn phủ cho thờ tự, nếu không thì thôi. Chiếu ban xuống, Mạc Đăng Dung sợ hãi, vâng mệnh.
Năm thứ hai mươi hai (1543), Mạc Đăng Dung qua đời, con của Phương Doanh là Mạc Phúc Hải 福海[33] kế vị, sai Tuyên phủ đồng tri là Nguyễn Điển Kính 阮典敬 cùng đoàn sứ sang triều cống.
Năm thứ hai mươi lăm (1546), Phúc Hải mất, con là Mạc Hoằng Dực 宏瀷[34] nối ngôi. Trước đó, Mạc Đăng Dung nhận người ở Thạch Thất là Nguyễn Kính 阮敬 làm nghĩa tử, phong làm Tây Ninh hầu. Nguyễn Kính gả con gái cho con thứ hai của Phương Doanh là Mạc Kính Điển, rồi Nguyễn Kính tư thông với vợ của Phương Doanh là bà Vũ thị, nhờ đó nắm toàn quyền quân sự.
Khi Hoằng Dực lên ngôi, mới 5 tuổi, Nguyễn Kính càng chuyên quyền. Con thứ hai của Đăng Dung là Mạc Chính Trung và cháu là Mạc Văn Minh phải lánh về Đô Trai, những người cùng phe như Nguyễn Như Quế, Phạm Tử Nghi cũng ẩn cư nơi thôn dã. Nguyễn Kính đem quân ép Đô Trai, bọn Chính Trung, Như Quế, Tử Nghi chống cự nhưng thất bại. Chính Trung và Văn Minh đem gia quyến chạy sang Khâm Châu, Tử Nghi thu nhặt tàn quân trốn ra Hải Đông.
Nguyễn Kính giả xưng Hoằng Dực đã chết, lấy cớ lập Chính Trung, kéo quân đánh Khâm Châu, nhưng bị Tham tướng Du Đại Du đánh bại và bị giết. Khi Hoằng Dực mới lên ngôi, từng sai sứ là Lê Quang Bí sang triều cống, đến Nam Ninh thì quan trấn thủ báo về triều. Lễ quan cho rằng nước ấy đang loạn, ngôi vị chưa rõ ràng, nên không cho sứ vào, mà lệnh cho quan trấn thủ điều tra người nên lập.
Đến năm thứ ba mươi (1551), sự việc được làm rõ, triều đình phong Hoằng Dực làm Đô thống sứ, lệnh đến cửa ải nhận sắc lệnh. Nhưng đúng lúc đó, bộ tướng Lê Bá Ly cùng thần của Lê Ninh là Trịnh Kiểm hợp binh tấn công, Hoằng Dực phải chạy về Hải Dương, không thể đến nhận sắc. Lê Quang Bí và đoàn sứ bị giữ lại ở Nam Ninh suốt 15 năm, phần lớn người đi cùng đều đã mất.
Hoằng Dực cầu xin quan trấn thủ thay mình dâng biểu, triều đình cho phép vào kinh, nhưng sắc phong Đô thống vẫn phải đợi Hoằng Dực đến cửa ải mới trao. Năm thứ 43 (1564), Hoằng Dực mất, con là Mạc Mậu Hợp kế vị. Năm Vạn Lịch nguyên niên (1573), được phong làm Đô thống sứ. Năm thứ ba (1575), sai sứ sang tạ ơn, chúc mừng vua Minh lên ngôi, dâng cống phẩm và bù lại các lần triều cống bị thiếu trước đó.
Lúc này, họ Mạc dần suy yếu, họ Lê phục hưng, hai bên liên tục giao tranh, khiến quốc gia ngày càng rối loạn.
Ban đầu, khi Lê Ninh chiếm giữ Thanh Hoa, ông vẫn tự xưng đế hiệu, đổi niên hiệu là Nguyên Hòa vào năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530). Sau bốn năm, bị Mạc Đăng Dung tấn công, ông phải chạy sang vùng biên giới Chiêm Thành. Người trong nước lập em ông là Lê Hiến 憲 lên thay, đổi niên hiệu là Quang Chiếu 光照.
Đến năm thứ 15 (1536), bề tôi dò biết nơi ở của Lê Ninh, liền đón ông về lại Thanh Hoa, sau đó chuyển đến sống ở sông Tất Mã. Lê Ninh mất, cận thần là Trịnh Kiểm lập con ông là Lê Sủng 寵[35] lên ngôi. Lê Sủng mất, không có con, người trong nước cùng nhau lập Lê Duy Bang[36], cháu bốn đời của Lê Huy 黎暉.
Lê Duy Bang mất, con của Trịnh Kiểm là Trịnh Tùng lập con Duy Bang là Lê Duy Đàm 維潭[37] lên ngôi. Từ đó, họ Lê đóng đô ở Thanh Hoa, tự lập thành một quốc gia riêng.
Năm Vạn Lịch thứ 19 (1591), Lê Duy Đàm ngày càng mạnh, đem quân tấn công Mạc Mậu Hợp. Mậu Hợp thua trận, chạy đến huyện Gia Lâm. Mùa đông năm sau (1592), Trịnh Tùng dụ dỗ người địa phương làm nội ứng, bất ngờ tập kích giết chết Mậu Hợp, đoạt lấy ấn Đô thống sứ. Nhiều người thân cận của Mậu Hợp cũng bị giết hại.
Có người tên là Mạc Đôn Nhượng 莫敦讓 chạy đến Phòng Thành cầu cứu, Tổng đốc Trần Cừ tâu việc lên triều đình. Nhưng sau đó, Mạc Đôn Nhượng lại bị Tùng bắt, thế lực của Trịnh Tùng càng lớn mạnh.
Con của Mậu Hợp là Mạc Kính Cung 敬恭 cùng tông thất là Mạc Lý Tốn 履遜 chạy đến Tư Lăng châu thuộc Quảng Tây, còn Mạc Lý Cơ 莫履機 chạy sang Khâm Châu. Chỉ có Mạc Kính Bang 莫敬邦 tập hợp được hơn mười vạn quân, khởi binh từ đường Kinh Bắc, đánh tan quân họ Lê do Phạm Bạt Tụy và Phạm Bách Lộc chỉ huy, giúp Mạc Đôn Nhượng trở lại.
Quần chúng liền tôn Mạc Kính Bang làm quyền Đô thống, những người họ Mạc lưu vong ở Tư Lăng và Khâm Châu đều trở về. Quân họ Lê sau đó tấn công Nam Sách châu, Mạc Kính Bang bị giết, thế lực họ Mạc càng suy yếu.
Mạc Kính Cung và Mạc Kính Dụng 敬用 đóng quân ở Lạng Sơn và Cao Bằng, Mạc Kính Chương 敬璋 đóng ở Đông Hải và Tân An, vì sợ quân họ Lê truy đuổi nên phải chạy đến biên giới Long Châu và Bằng Tường, sai thổ quan trình bày sự việc với quan lại địa phương.
Lê Duy Đàm cũng đến cửa ải xin được triều cống, và được triều đình nhà Minh công nhận là quốc vương, ban cho kim ấn.
Năm thứ 21 (1593), Tuần phủ Quảng Tây là Trần Đại Khoa cùng các quan dâng sớ tâu rằng: “Xứ man di thay họ (vua chúa) như đánh cờ, không nên lấy việc họ trung hay phản với nhau để định là thuận hay nghịch, mà chỉ nên lấy việc họ trung hay phản với triều đình ta để xét. Nay tuy Lê Duy Đàm mưu khôi phục, nhưng Mạc Mậu Hợp vốn là ngoại thần của triều đình ta, sao có thể không xin phép ta mà lại ngang nhiên giết ông ta? Thần cho rằng tội của họ Lê tự ý khởi binh không thể không xét, còn tàn dư họ Mạc cũng không thể bỏ mặc. Nếu theo lệ cũ của triều trước, cho họ Lê quy phục mà vẫn giữ họ Mạc, như từng làm với vùng sông Tất Mã, không diệt tế tự của họ, thì là kế sách hợp lý.”
Triều đình bàn luận và đồng ý theo lời tâu đó.
Năm sau (1594), Trần Đại Khoa đang sai quan đi điều tra thì Mạc Kính Dụng đã sai sứ đến doanh trại quân đội xin cứu viện. Mùa thu năm sau nữa (1595), Lê Duy Đàm cũng sai sứ đến tạ tội và xin triều cống.
Lúc này, Trần Đại Khoa đã được thăng làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, cùng với Tuần phủ Quảng Tây là Đới Diệu giao việc cho Phó sứ Tả Giang là Dương Dần Thu. Dần Thu ngầm tính toán rằng: “Không từ chối họ Lê, cũng không bỏ rơi họ Mạc — đó là kế sách của ta.”
Ông liền hai lần sai quan đến điều tra. Mạc Kính Cung và những người khác xin được ở lại Cao Bằng, còn sứ giả của Lê Duy Đàm cũng nhiều lần đến xin triều cống. Dần Thu hẹn ngày tiếp nhận, rồi báo cáo lên Tổng đốc và Tuần phủ.
Đúng lúc đó, Mạc Kính Chương dẫn quân đến ứng cứu Vĩnh An, nhưng bị quân họ Lê đánh bại, mất toàn bộ vùng Hải Đông và Tân An. Vì vậy, việc nghị hòa càng được thúc đẩy và đi đến quyết định.
Lúc đó, Lê Duy Đàm mưu tính khôi phục danh nghĩa chính thống, không muốn tự đặt mình vào vị trí như Mạc Đăng Dung trước kia, nên không có ý định tự trói mình vào cửa ải xin hàng. Dương Dần Thu lại sai quan đến dụ hàng, sứ giả của Lê Duy Đàm lúc đầu báo rằng sẽ làm theo hẹn, nhưng đến kỳ thì lại nói với quan giữ cửa ải rằng: “Quân lính đói khát, bệnh tật, lễ vật chưa chuẩn bị xong. Hơn nữa, họ Mạc là kẻ thù của chúng tôi, đang ở Cao Bằng, nên chưa dám vâng mệnh.” Rồi nửa đêm bỏ trốn.
Trần Đại Khoa và các quan dâng sớ tâu việc này, cho rằng đó là do quyền thần Trịnh Tùng chuyên quyền gây ra. Sau đó, Lê Duy Đàm lại sai sứ đến cửa ải, trình bày rằng mình không phải cố ý bỏ trốn. Trần Đại Khoa và các quan lại sai người đến dụ hàng lần nữa, lần này Lê Duy Đàm chịu nghe theo mệnh lệnh.
Năm thứ 25 (1597), Lê Duy Đàm sai sứ xin định ngày vào cửa ải, Dương Dần Thu báo là tháng Tư. Đến kỳ hẹn, Lê Duy Đàm đến ngoài cửa ải, phiên dịch viên tra hỏi sáu điều:
- Vì sao tự ý giết Mạc Mậu Hợp? – Đáp: Vì báo thù gấp, không kịp xin phép.
- Dòng dõi? – Đáp: Là Thế tôn, cháu của Lê Duy Huy, từng được nhà Minh sắc phong.
- Về Trịnh Tùng? – Đáp: Là đại thần lâu đời của họ Lê, không phải kẻ tiếm quyền.
- Vì sao trước đó bỏ trốn? – Đáp: Do chưa chuẩn bị đủ lễ vật, không phải cố ý.
- Việc sử dụng ấn vương? – Đáp: Tạm dùng để điều hành, nay đã hủy bỏ.
- Không nhường Cao Bằng cho họ Mạc? – Đáp: Cả hai đều là chư hầu, như trước kia họ Lê từng được ở sông Tất Mã.
Sau khi chấp thuận các điều kiện, Lê Duy Đàm được ban nghi lễ vào cửa ải, thực hiện lễ triều cống như Mạc Đăng Dung từng làm. Sau đó đến gặp Dương Dần Thu, xin được dùng lễ khách chủ, nhưng không được chấp thuận, đành làm lễ bốn lạy rồi lui.
An Nam được ổn định trở lại. Triều đình phong Lê Duy Đàm làm Đô thống sứ, ban lịch và cho phép triều cống như lệ cũ của họ Mạc.
Trước kia, Lê Lợi và Mạc Đăng Dung khi tiến cống đều phải dâng tượng vàng thay thân, đầu trần tay trói. Riêng Lê Duy Đàm vì danh nghĩa khôi phục chính thống nên đứng thẳng nghiêm trang, khiến quan lại thấy ông quá kiêu, buộc phải sửa lại. Cuối cùng, ông dâng tượng vàng trong tư thế quỳ phục, khắc trên lưng dòng chữ: “An Nam Lê thị Thế tôn, thần Lê Duy Đàm không thể quỳ trước Thiên môn, kính dâng tượng vàng thay thân, xin hối lỗi và cầu ân.”
Từ đó, An Nam lại thuộc về họ Lê, còn họ Mạc chỉ giữ được một quận là Cao Bằng.
Năm thứ 27 (1599), Lê Duy Đàm mất, con là Lê Duy Tân 維新[38] kế vị, Trịnh Tùng nắm toàn quyền. Gặp lúc thủ lĩnh nổi loạn là Phan Ngạn gây rối, Lê Duy Tân và Trịnh Tùng phải dời về giữ Thanh Hóa.
Năm thứ 34 (1606), sai sứ sang triều cống, được phong làm Đô thống sứ. Lúc này, tông đảng họ Mạc phần lớn trốn ra vùng ven biển, thường tự xưng công, hầu, bá, xâm phạm biên giới. Lê Duy Tân cũng không thể kiểm soát được. Quan trấn thủ nhiều lần gửi hịch hỏi tội, phát binh đánh dẹp, tuy có lúc dẹp yên, nhưng vùng biên vẫn bị tổn hại.
Lê Duy Tân mất, con là Lê Duy Kỳ 維祺[39] kế vị. Năm Thiên Khải thứ 4 (1624), Duy Kỳ phát binh đánh Mạc Kính Khoan, chiếm được, giết con trưởng của Khoan, bắt vợ con và con nhỏ đem về. Mạc Kính Khoan 莫敬寬 cùng con thứ trốn vào rừng, sau quay lại Cao Bằng, thế lực ngày càng suy yếu. Tuy vậy, cho đến cuối thời Minh, hai họ Lê – Mạc vẫn chia nhau chiếm cứ, không thể thống nhất đất nước.
Kinh đô An Nam đặt tại Giao Châu, tức nơi từng là trị sở của Đô hộ phủ nhà Đường.
Lãnh thổ phía đông giáp biển, phía tây giáp Lào, phía nam vượt biển là Chiêm Thành, phía bắc giáp Tư Minh và Nam Ninh của Quảng Tây, Lâm An và Nguyên Giang của Vân Nam. Đất đai màu mỡ, khí hậu nóng, mỗi năm trồng lúa được hai vụ.
Tính người cứng cỏi, mạnh mẽ. Hai châu Hoan và Diễn có nhiều người học vấn; châu Giao và Ái có nhiều người hào sảng, khác biệt với các vùng khác.
Chú thích
- ▲ Trần Thái Tông, húy Trần Cảnh 陳煚, Trần Nhật Quýnh 陳日煚.
- ▲ Trần Dụ Tông
- ▲ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương
- ▲ Dương Nhật Lễ
- ▲ Trần Nghệ Tông
- ▲ Trần Duệ Tông
- ▲ Minh sử lầm: Trần Vĩ là con trưởng Trần Thoan (Duệ Tông) nhưng đã chết trước đó. Người nối ngôi Trần Thoan là Trần Hiện (Trần Phế Đế), cũng là con thứ của Trần Thoan chứ không phải em.
- ▲ Trần Phế Đế
- ▲ Trần Thuận Tông
- ▲ Minh sử lầm: Trần Côn và Trần Ngung đều là tên của Trần Thuận Tông. Trần An (Trần Thiếu Đế) là con Trần Côn.
- ▲ Thăng Long
- ▲ Thanh Hóa
- ▲ Minh sử lầm: Trừng là anh Thương
- ▲ Minh sử lầm: đây là Nguyễn Cảnh Dị
- ▲ Trần Nghệ Tông
- ▲ Thực tế Lê Lợi mất năm 1433
- ▲ Lê Thái Tông, húy Lê Nguyên Long 黎元龍
- ▲ Thực tế từ đời nhà Trần các vua Trần đã lấy hai tên, một để dùng trong nước và một để ngoại giao.
- ▲ Lê Nhân Tông, húy Lê Bang Cơ 黎邦基
- ▲ Bình Định
- ▲ Lê Nghi Dân
- ▲ Lê Thánh Tông, húy Lê Tư Thành 黎思誠
- ▲ Lê Hiến Tông, húy Lê Tranh
- ▲ Lê Túc Tông, húy Lê Thuần 黎㵮
- ▲ Lê Uy Mục
- ▲ Lê Tương Dực, húy Lê Oanh
- ▲ Minh sử lầm: đây là Lê Sùng 黎漴, cha của Lê Chiêu Tông
- ▲ Lê Chiêu Tông, húy Lê Y 黎椅
- ▲ Lê Cung Hoàng, húy Xuân và Khoáng
- ▲ Mạc Đăng Doanh
- ▲ Chu Tái Duệ 朱載壡
- ▲ Lê Trang Tông
- ▲ Mạc Hiến Tông
- ▲ Mạc Tuyên Tông, húy Mạc Phúc Nguyên
- ▲ Lê Trung Tông
- ▲ Lê Anh Tông
- ▲ Lê Thế Tông
- ▲ Lê Kính Tông
- ▲ Lê Thần Tông