Biên dịch:Minh thực lục/Thành tổ văn hoàng đế thực lục/Quyển 057
Sử /Biên niên /Minh thực lục /Thái tông /Quyển 068 Vĩnh Lạc năm 05 tháng 06 / ngày 1 (P.943)
[sửa]Ngày mồng một tháng Sáu năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), ghi rằng An Nam đã được bình định. Cụm '以安南平' bị lặp lại ba lần, tổng cộng bốn chữ bị lặp nhầm, bản hiệu đính cũ đã xóa bỏ.
Chiếu thiên hạ rằng:[1]
Trẫm chỉ phụng mệnh theo bản đồ của tổ tông, kính cẩn tôn trọng pháp chế đã định, mở rộng giáo hóa sâu xa, mong cho bốn biển đều được hưởng thái bình, mãi giữ sự hòa thuận lớn, khiến muôn vật đều được phát triển. Sớm tối lo toan việc nước, không dám lười biếng.
Ngẫm lại tiên tổ là Thái Tổ Cao Hoàng Đế đã thống nhất thiên hạ, dùng đức để cảm hóa người phương xa. An Nam là nước của Trần Nhật Khuể, cảm nghĩa mà hướng về, đi đầu trong việc triều cống, nên được phong làm An Nam Vương, đời đời giữ đất ấy.
Gần đây, tên nghịch thần Lê Quý Ly cùng con là Lê Thương đã giết vua nước ấy, sát hại cả gia tộc, gây đau thương cho dân chúng, tiếng oán đầy đường. Hắn giả đổi tên là Hồ Nhất Nguyên, con là Hồ Hán Thương, che giấu sự thật, giả xưng là cháu họ nhà Trần, nói dối rằng họ Trần đã tuyệt tự, xin được nối ngôi. Trẫm nghĩ dân nước ấy không còn người đứng đầu, nên thuận theo lời hắn.
Không ngờ hắn thành công trong mưu gian, ngang nhiên không kiêng dè, tự cho mình là thánh vượt ba hoàng, đức cao hơn năm đế, cho rằng văn võ không đáng làm gương, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy. Hắn tự xưng quốc hiệu là Đại Ngu, đặt niên hiệu là “Nguyên Thánh”, tự gọi mình là “Lưỡng cung hoàng đế”, giả mạo nghi lễ triều đình, chiêu mộ kẻ trốn tránh, ngoài mặt thì theo chính thống.
Hắn dòm ngó Nam Chiếu, rình rập Quảng Tây, chiếm mấy châu thuộc phủ Tư Minh, xâm lấn bảy trại của châu Ninh Viễn, bắt con gái, đánh dân chúng. Thấy nước Chiêm Thành yếu thế, hắn chiếm đất đai, ép buộc mặc trang phục, đòi nộp cống phẩm. Triều đình nhiều lần sai sứ khuyên bảo, nhưng hắn vẫn ngoan cố không sửa.
Cháu của An Nam Vương phải trốn chạy đến triều đình kêu oan, nói rằng giặc giả vờ dâng biểu xin đón vua về, nhưng lại phục binh giết người giữa đường, sỉ nhục sứ giả. Trẫm sai người ban lễ vật cho Chiêm Thành, hắn lại cướp đoạt và bắt giữ sứ thần.
Tên nghịch tặc ngu xuẩn ấy, tội ác chất chồng như núi, là kẻ mà bốn biển không dung, trời người đều phẫn nộ. Nhắc đến đây, lòng đau như cắt, thật là bất đắc dĩ, nên Trẫm mới khởi binh, nhằm đánh kẻ có tội để cứu dân, muốn khôi phục nước đã mất, nối lại dòng dõi đã tuyệt. Bèn sai Chinh Di tướng quân, Hầu tước Tân Thành là Trương Phụ làm tổng binh, cùng các tướng lĩnh đem tám mươi vạn quân đi đánh. Quân vượt sông Phú Lương như bay, tiến sâu vào đất giặc. Quân đội hùng mạnh như hổ, uy danh vang như sấm sét; bọn giặc hung ác như mục nát bị cuốn trôi. Bảy triệu quân giặc bị tiêu diệt trong chốc lát, đất nước hai ngàn dặm lần lượt được bình định.
Bắt sống tên nghịch tặc Lê Quý Ly cùng con là Lê Thương, Lê Trừng và cả gia quyến, cùng các quan lại, tướng tá giả mạo như Từ Quý Tỳ[11], Hồ Đỗ v.v. Thu phục những người đầu hàng, an ủi người lương thiện. Khắp nơi tìm kiếm con cháu họ Trần để lập lại. Quan lại, hào lão trong nước đều nói rằng: “Tên giặc Lê đã giết sạch họ Trần, không còn ai để kế thừa.” Lại nói: “An Nam vốn là đất Giao Châu xưa, là quận huyện của Trung Quốc, đã nhiễm phong tục man di từ lâu. Nay may mắn quét sạch giáo mác, dẹp bỏ ô uế, xin được khôi phục lại quận huyện như xưa, cùng dân làm lại từ đầu.”
Trẫm thuận theo lòng dân, chấp thuận lời thỉnh cầu, lập ra các cơ quan hành chính như: Giao Chỉ đô chỉ huy sứ ty, Giao Chỉ thừa tuyên bố chánh sứ ty, Giao Chỉ đề hình án sát sứ ty và các nha môn quân dân, đặt quan chia việc, quét sạch tà khí nơi biên hải, thay đổi phong tục cũ nơi phương xa.
Những việc cần làm đều được liệt kê sau. An Nam Vương họ Trần bị giặc Lê giết hại, chết không đúng mệnh, nên được truy phong thụy hiệu để an ủi linh hồn. Con cháu họ hàng bị giặc giết hại cũng nên được truy phong chức tước, các cơ quan hữu trách phải kê khai danh sách trình lên.
Con cháu họ Trần đã bị giặc giết sạch, tông miếu bị bỏ hoang, nên lập đền thờ, tu sửa mồ mả bị hoang phế, cấp ba mươi hộ dân để lo việc cúng tế và quét dọn. Quan lại, quân dân An Nam bị giặc Lê ép buộc mà chết rất nhiều, xác phơi ngoài đồng, thật đáng thương, các cơ quan phải lập tức chôn cất.
Quan lại các quận huyện ở An Nam đều là người cũ của họ Trần, bị giặc Lê đe dọa, vốn không phải tự nguyện, khi chiếu chỉ đến nơi, ai đang tại chức đều được giữ nguyên. Nhưng dân đã lâu nhiễm phong tục man di, nên cần đặt quan cai trị song song, dạy họ lễ pháp Trung Hoa.
Giặc Lê mấy năm qua cai trị tàn bạo, làm hại dân chúng, nay đều bị bãi bỏ, ban bố chính lệnh triều đình để yên lòng dân. Các nơi ở An Nam có đồn trại, dân tụ tập giữ đồn hoặc trốn ra đảo, khi chiếu chỉ đến thì phải lập tức giải tán.
Dân chúng đã chịu khổ dưới tay giặc Lê quá lâu, các cơ quan phải an ủi, giúp họ yên ổn làm ăn, không để họ mất nơi nương tựa. Quan lại, quân dân bị giặc hại, bị xăm mặt, đày đi, cả nhà bị lưu đày không nơi nương tựa, cùng những người bị hại khác, khi chiếu chỉ đến thì đều được trở về quê cũ, khôi phục nghề nghiệp, các cơ quan phải lập tức thi hành, không được chậm trễ. Ai đang bị giam giữ thì lập tức thả ra.
Trong cõi An Nam, ai cao tuổi, có đức hạnh, các cơ quan phải kính trọng. Ai góa bụa, cô độc không nơi nương tựa thì lập viện dưỡng tế để chăm sóc. Ai có tài đức, có thể dùng được, các cơ quan phải lễ độ mời về kinh, hoặc tùy tài mà bổ dụng tại chỗ.
An Nam giáp ranh với Chiêm Thành, Bách Di, cần giữ vững biên giới, không được xâm phạm. Cũng không cho phép quân dân tự ý thông thương với nước ngoài, hay tự ra biển buôn bán hàng hóa phương xa, ai vi phạm sẽ bị xử theo luật.
Than ôi! Uy vũ một lần nữa được phát dương, chẳng phải là điều Trẫm mong muốn; kẻ đại ác đã bị trừng trị, thật là lòng dân đồng thuận. Ban bố lòng nhân bình đẳng, thực hiện trị bình thái hòa đời Vĩnh Lạc, công bố trong ngoài, để mọi người đều biết.
Chiếu dụ gửi đến Tổng binh quan Giao Chỉ, Chinh di Tướng quân, Tân Thành hầu Trương Phụ; Tả Phó tướng quân, Tây Bình hầu Mộc Thạnh; Tả Tham tướng, Phong Thành hầu Lý Bân; Hữu Tham tướng, Vân Dương bá Trần Húc, cùng các tướng tá lớn nhỏ các cấp, về việc giặc Lê ở An Nam. Chiếu viết:
"Tên Lê nghịch giết vua, cướp nước, tự xưng niên hiệu, hung bạo vô nhân, làm hại cả nước, xâm chiếm đất đai lân bang, chống lại mệnh trời, không tu sửa cống nạp. Trẫm bất đắc dĩ phải sai các khanh đi đánh để trị tội. Nhờ trời đất và tổ tông âm thầm phù trợ, tướng sĩ đồng lòng, oai binh đến đâu đều dẹp yên đến đó. Đã bắt sống được nghịch tặc Lê Quý Ly cha con cùng bọn quan lại giả mạo, an ủi dân lành, thu nhận người đầu hàng, không phạm một mảy may, chợ búa không náo loạn. Tin thắng trận truyền về, trẫm rất vui mừng, ban thưởng hậu hĩ."
"Xưa kia thời Tống, Nguyên từng đem quân đánh An Nam nhưng đều không thành công. Nay việc làm này đã vượt xa người xưa, công danh hiển hách, tiếng thơm truyền muôn đời. Nay đặc biệt sai người mang chiếu đến an ủi, giữa lúc nắng nóng, nên chọn nơi cao ráo mát mẻ để nghỉ ngơi binh mã, đợi khi thời tiết mát mẻ thì rút quân."
Lại dụ Trương Phụ rằng: "Trước đây các khanh đã dâng biểu của lão thần Mạc Toại, nói rằng con cháu họ Trần đều bị Lê nghịch giết sạch, không còn ai kế thừa, xin theo lệ xưa lập lại quận huyện. Trẫm đã sai các khanh cố công tìm kiếm, lại được tấu rằng họ Trần đã tuyệt tự, không thể không có quận huyện. Xin lập ba ty để cai trị quân dân, đều theo như lời tâu. Lập Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ ty, giao cho Lữ Nghị làm Đô đốc, Hoàng Trung làm phó. Lại chọn hai người có tài làm phó chỉ huy. Bộ Bố chính ty và Án sát ty giao cho Thượng thư Hoàng Phúc kiêm nhiệm, trước đây là Thượng thư Bộ Công."
Sai Lang trung Trương Hiển Tông, Phó Tham chính Bộ Bố chính Phúc Kiến là Vương Bình làm Tả, Hữu Bố chính sứ. Nguyên Tả Tham chính Bộ Bố chính Hà Nam là Lưu Bổn và Hữu Tham chính Lưu Dực làm Tả, Hữu Tham chính. Nguyên Án sát sứ Giang Tây là Chu Quan Chính. Người An Nam quy thuận là Bùi Bá Kỳ cũng được bổ nhiệm làm Tả, Hữu Tham chính. Nguyên Án sát sứ Hà Nam là Nguyễn Hữu Chương, Phó Án sát sứ Dương Trực làm Phó Án sát sứ. Nguyên Tri phủ Thái Bình là Lưu Hữu Niên làm Án sát Thiêm sự. Lại chọn thêm các quan viên có khả năng để bổ nhiệm vào các nha môn phủ, châu, huyện. Những người không đủ điều kiện thì giao cho Bộ Lại tuyển chọn bổ sung. Nay sai mang ấn tín đến để cấp phát và trao chức.
Đổi tên các địa danh như sau:
- Giao Chỉ Long Hưng 交阯龍興 phủ đổi thành Trấn Man phủ 鎮蠻府
- Kiến Hưng phủ đổi thành Kiến Bình phủ
- Thiên Trường phủ đổi thành Phụng Hóa phủ
- Tân Hưng phủ đổi thành Tân An phủ
- Quốc Oai châu đổi thành Uy Man châu
- Tuyên Quang châu đổi thành Tuyên Hóa châu
- Thượng Phúc châu đổi thành Phúc An châu
- An Bang châu đổi thành Thanh An châu
- Nhật Nam châu đổi thành Nam Tĩnh châu
- Bố Chính châu đổi thành Chính Bình châu
- Minh Linh châu đổi thành Nam Linh châu
- Huyện Long Nhãn đổi thành Thanh Viễn huyện
- Huyện An Thế đổi thành Thanh An huyện
- Huyện Ứng Thiên đổi thành Ứng Bình huyện
- Huyện Sơn Minh đổi thành Sơn Định huyện
- Huyện Thượng Phúc đổi thành Bảo Phúc huyện
- Huyện Long Đàm đổi thành Thanh Đàm huyện
- Huyện Đan Dương đổi thành Đan Sơn huyện
- Huyện Long Bạt đổi thành Lũng Ban huyện
- Huyện Thiên Thi đổi thành Thi Hóa huyện
- Huyện Cổ Chiến đổi thành Cổ ...
- Huyện Bình đổi thành huyện Thống Ninh
- Huyện Phật Thệ đổi thành huyện Thiện Thệ
- Huyện Thiên Bản đổi thành huyện An Bản[2]
- Huyện Độc Lập đổi thành huyện Bình Lập
- Huyện Lê Gia đổi thành huyện Lê Bình
- Huyện Ngự Thiên đổi thành huyện Tân Hóa
- Huyện Phí Gia đổi thành huyện Cổ Phí
- Huyện An Bang đổi thành huyện Đồng An (có bản chép nhầm là Cố An)
- Huyện An Hưng đổi thành huyện An Hòa
- Huyện Trà Long đổi thành huyện Trà (có bản chép là Trà Thanh, nhưng theo các tài liệu khác thì đúng là Trà Kệ)
- Huyện Đỗ Gia đổi thành huyện Cổ Đỗ
- Huyện Thượng Lộ đổi thành huyện Lộ Bình
- Huyện Thượng Phúc đổi thành huyện Phúc Khang
- Huyện Bố Chính đổi thành huyện Chính Hòa
- Huyện Đặng Gia đổi thành huyện Cổ Đặng
- Huyện Tả Bố đổi thành huyện Tả Bình
- Huyện Thế Vinh đổi thành huyện Sĩ Vinh.
- Các huyện còn lại giữ nguyên như cũ.
Chú thích
- ▲ 平安南詔 - Bình An Nam chiếu 1407
- ▲ ghi chú: bản gốc có chỗ chép nhầm là An Bình, nhưng theo văn bản sau thì đúng là An Bản