Bước tới nội dung

Biên dịch:Thù vực chu tư lục/Quyển 7

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Thù vực chu tư lục  (1574)  của Nghiêm Tòng Giản, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
quyển 7, Nam man: Chiêm Thành

Chiêm Thành 占城

[sửa]

Nước Chiêm Thành (占城國), xưa thuộc cõi của họ Việt Thường (越裳氏). Thời Tần, là đất huyện Tượng Lâm (象林縣) thuộc quận Tượng (秦郡); thời Hán, là huyện Lâm Ấp (林邑縣) thuộc quận Nhật Nam (日南郡).

Cuối đời Hán, có người tên Khu Liên (區連) giết huyện lệnh, tự lập làm vua nước Lâm Ấp (林邑國), từ đó không còn thuộc bản đồ Trung Quốc. Thời Tôn Ngô (Đông Ngô) có thông sứ qua lại.

Sau đó, nước này truyền ngôi cho ngoại tôn là Phạm Hùng (范熊)[1], Hùng truyền cho con là Dật (逸). Bị bề tôi là Phạm Thôi Chi Nô (范推之奴) chuyên quyền, truất các con của Dật. Dật chết, Nô mạo danh họ Phạm (范), lấy tên là Phạm Văn, cướp ngôi, đánh chiếm các nước lân cận. Giữa niên hiệu Vĩnh Hòa (永和, 345–356) đời Tấn, đánh chiếm Nhật Nam (日南), xin đất biên giới phía bắc Nhật Nam cũ với Giao Châu. Thứ sử Chu Phiên (朱藩), lấy núi Hoành Sơn (橫山) làm ranh giới. Sau đó, Giao Châu thứ sử Dương Bình (楊平) cùng Thái thú Cửu Chân (九真) là Quán Toại (灌邃) đánh dẹp. Con Văn (文) là Phạm Phật (佛) thua chạy, quan quân truy đến nước họ. Phật xin hàng. Sau đó lại mạnh lên, xâm lấn tàn bạo các quận Nhật Nam, Cửu Chân, năm nào cũng đến Giao Châu, lãnh thổ ngày càng rộng, kéo dài đến 3.000 dặm, có người nói là 1.000 dặm.

Phạm Văn truyền đến cháu bốn đời thì bị vua Phù Nam (扶南) giết. Quốc thần là Phạm Chư Nông (范諸農) bình loạn rồi tự lập, truyền cho con là Dương Mại (陽邁), khi thì thần phục, khi thì phản lại Trung Quốc.

Giữa niên hiệu Nguyên Gia (元嘉, 424–453) đời Tấn, Văn Đế sai Tông Khác (宗慤) và Thiện Hòa Chi (擅和之)[2] đi đánh. Dương Mại sợ, xin nộp 10.000 cân vàng, 100.000 cân bạc, 300.000 cân đồng, trả lại hộ dân Nhật Nam bị bắt để tỏ lòng thần phục, nhưng đại thần can ngăn. Sau đó lại sai đại tướng Phạm Phù Long (范扶龍) trấn giữ thành Khu Lật (區栗城) ở biên giới phía bắc để chống Tấn. Tiền phong Tấn là Tiêu Cảnh Hiến (蕭景憲) chiếm được thành, thừa thắng tiến vào Tượng Phổ (象浦). Dương Mại xuất quân, dùng voi ra trận, Khác chế tạo hình sư tử để chống lại. Voi bỏ chạy, quân thua. Cha con Dương Mại trốn thoát. Chiếm được vô số châu báu của nước họ, nấu tượng vàng, dâng về triều đình hàng trăm ngàn cân vàng.

Từ đó trải qua các triều Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy đều đến triều cống.

Cuối niên hiệu Nhân Thọ (仁壽, 601–604) đời Tùy, lại sai tướng Lưu Phương (劉方) đánh phá. Quốc chủ Phạm Chí (范志 Sambhuvarman) bỏ thành chạy, bắt được 18 tượng thần trong miếu, đều đúc bằng vàng, cho thấy từ khi lập quốc đến nay đã 18 đời. Khi Phương rút quân, Phạm Chí lại khôi phục quốc gia.

Đến giữa niên hiệu Trinh Quán (貞觀, 627–649) đời Đường, cháu là Phạm Trấn Long (鎮龍 Bhasadharma) bị giết. Ngoại thích là Chu Cát Địa (諸葛地)[3] chiếm lấy, đổi hiệu là Hoàn Vương (環王). Đầu niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806–820), xâm lấn các châu An Nam (安南) là Chuy (騅), Ái (愛). Đô Khuếch Trương Đan (都擴張丹) đánh bại. Từ đó bỏ Lâm Ấp (林邑), dời quốc đô đến Chiêm (占), đổi gọi là Chiêm Thành (占城).

Giữa niên hiệu Hiển Đức (顯德, 954–960) đời Hậu Chu, cũng đến triều cống. Năm Kiến Long thứ hai (建隆二年, 961) đời Tống, vua là Thích Lợi Nhân Đà Bàn (釋利因拖盤 "Jaya Indravarman I") sai sứ đến triều. Biểu văn cống được viết trên giấy Bối Đa Huyền (貝多軒), đựng trong hộp gỗ thơm. Sau đó các vua kế vị tiếp tục sai sứ triều cống không dứt, nhà Tống cũng ban thưởng hậu hĩnh.

Giữa niên hiệu Chính Hòa (政和, 1111–1118), phong vua là Dương Bốc Ma Điệp (楊卜麻疊 Harivarman V) làm Kim Tử Quang Lộc Đại Phu (金紫光祿大夫), kiêm Tri Châu Lâm Bạch (廉白州刺史). Dương Bốc Ma Điệp tâu rằng mình ở ngoài hóa, không hưởng lộc, xin được cấp lương bổng để làm vẻ vang nước nhỏ. Triều đình chấp thuận.

Năm đầu niên hiệu Tuyên Hòa (宣和元年, 1119), tiến phong làm Kiểm Hiệu Tư Không (檢校司空), kiêm Ngự Sử Đại Phu (御史大夫), Hoài Viễn Quân Tiết Độ (懷遠軍節度), Lâm Châu Quản Nội Quan Sát Xử Trí Sứ (琳州管內觀察處置使), phong làm vua nước Chiêm Thành (占城國王). Từ đó mỗi khi có ân huệ đều ban chiếu như phong đất.

Giữa niên hiệu Thuần Hy (淳熙, 1174–1189), sai quân tập kích Chân Lạp (真臘), đánh bại[4]. Giữa niên hiệu Khánh Nguyên (慶元, 1195–1200), Chân Lạp đem quân lớn báo thù, diệt nước Chiêm, bắt giết thần dân gần hết, lập người Chân Lạp làm vua, đổi gọi là Chiêm Lạp (占臘)[5].

Giữa niên hiệu Chí Nguyên (至元, 1264–1294) đời Nguyên, quốc chủ là Bột Do Bổ Thích Giả Ngô (孛由補刺者吾) sai sứ quy phục, dâng cống vật. Con là Bổ Đích (補的) lên ngôi, lại kiêu ngạo không thần phục, nhà Nguyên nhiều lần sai đại quân đến. Lại thường sai sứ dụ hàng. Tuy ngoài mặt tỏ vẻ thần phục, nhưng trong lòng không thuận.

Năm đầu niên hiệu Hồng Vũ (洪武元年, 1368), vua nước ấy là A Đáp A Giả (阿答阿者 Chế Bồng Nga) sai sứ giả Hồ Đô Man (虎都蠻) đến chúc mừng việc lên ngôi, dâng cống hổ, voi và các vật phẩm địa phương. Triều đình sai hành nhân Ngô Dụng (吳用), Nhan Tông Lỗ (顏宗魯), Dương Tải (楊載) đưa sứ giả về nước, ban cho chiếu thư, lịch Đại Thống (《大統曆》) và các loại tiền tệ như gấm vàng.

Chiếu viết: “Ngày mồng 4 tháng 2 âm lịch năm nay (tức ngày 10 tháng 3 năm 1368), Hồ Đô Man đem hổ, voi đến. Tấm lòng thành của vua, trẫm đã rõ. Nhưng khi Hồ Đô Man chưa đến, sứ giả của trẫm đã lên đường. Trẫm sai sứ chính là để báo cho vua biết. Trước kia Trung Quốc bị người Hồ chiếm cứ hơn 100 năm, khiến cho di địch lan tràn khắp nơi, làm rối loạn lễ nghi Trung Quốc. Trẫm đã phát binh đánh dẹp, trải qua 20 năm, di địch đã bình, trẫm làm chủ Trung Quốc, thiên hạ được yên. Lo rằng phiên di chưa biết, nên sai sứ báo cho các nước. Không ngờ sứ giả của vua đến trước, lòng thành thật sâu sắc, trẫm rất vui mừng. Nay ban một bộ lịch Đại Thống, gấm dệt vàng, lụa sa la 50 tấm, sai người riêng đưa sứ giả về. Lại dụ vua lấy đạo phụng mệnh trời, khiến người nước Chiêm Thành (占城) yên ổn làm ăn, vua cũng giữ được ngôi vị lâu dài, phúc lộc truyền đến con cháu. Thượng Đế thực sự soi xét, vua hãy cố gắng chớ lười.”

Năm thứ 3 (1370), An Nam đem quân xâm lược Chiêm Thành (占城). A Đáp A Giả (阿答阿者) sai Bình chương Bồ Đan Ma Đô (蒲旦麻都) tâu báo. Hoàng thượng sai Hàn lâm biên tu La Phục Nhân (羅復仁), Binh bộ chủ sự Trương Phúc (張福) mang chiếu dụ An Nam và Chiêm Thành rằng:

“Trẫm vốn là kẻ áo vải, nhân thiên hạ loạn lạc, khởi binh giữ quê hương. Không ngờ hào kiệt theo về, trẫm chinh chiến mấy năm, mở rộng bờ cõi, binh lực hùng mạnh, được quần thần tôn lập, làm chủ thiên hạ, nối ngôi chính thống, đến nay đã 3 năm. Trong các nước ngoài biển vào triều cống, An Nam là sớm nhất, Cao Ly (高麗) kế tiếp, rồi đến Chiêm Thành. Đều dâng biểu xưng thần, hợp với cổ lễ, trẫm rất khen ngợi.

Gần đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đan Ma Đô đến cống, nói An Nam đem quân xâm lấn. Trẫm nghe mà lòng không yên, nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã phân định rõ ràng, không thể cưỡng ép hợp làm một, đó là ý trời vậy. Huống chi nơi các ngươi ở cách Trung Quốc núi cao biển rộng. Việc nói xâm phạm đúng sai khó biết ngay. Trẫm xét kỹ, các ngươi truyền nối đã lâu, giữ đất yên dân, thờ trời kính Trung Quốc, vua trước hẳn có lời răn dạy, không cần nói cũng biết.

Trẫm là chủ thiên hạ, trị loạn cứu nguy, là việc nên làm. Nay sai sứ đến xem xét sự việc, dụ cho biết đạo kính trời giữ phận. Nếu hai bên cứ nắm giữ binh đao, năm này qua năm khác không dứt, khiến dân chúng khổ sở, Thượng Đế yêu sinh linh, ắt không vui. Lo rằng trời giáng tai ương, dân sinh oán hận, họa ấy không tránh khỏi. Hai vua nên nghe lời trẫm, mỗi bên giữ đạo, yên phận mình. Như thế các ngươi và con cháu đều hưởng phúc lâu dài, há chẳng tốt đẹp sao!”

Chiếu đến, hai nước đều nghe lệnh, lui binh. Bèn sai Trung thư quản câu Cam Hoàn (甘桓), Hội đồng quán phó sứ Lộ Cảnh Hiền (路景賢) mang chiếu và ấn phong A Đáp A Giả làm vua nước Chiêm Thành. Hoàng thượng lại thấy Chiêm Thành thông hiểu chữ Hán, sai sứ ban chiếu khoa cử cho nước này.

Theo Tống sử (《宋史》), nước Chiêm Thành (占城) có hơn 50 viên quan văn, gọi là lang trung (郎中), viên ngoại (員外), tú tài (秀才), chia nhau quản lý tài vật, kho tàng, châu báu. Xem kỹ trong Ngũ đại sử (《五代史》), tuy nước này không có chế độ khoa cử, nhưng đã biết trọng văn hóa từ lâu, nên người trong nước phần nhiều giỏi văn chương. Như sách Cận Phong Văn Lược (《近峰聞略》) chép sứ giả Chiêm Thành vào cống có làm thơ, bài “Sơ phát” (初發) viết:

Hành tận hà kiều liễu sắc biên,
Phiến phàm cao quải viễn triều thiên.
Vị hành tiên thức quy tâm tảo,
Ưng thị Yên Sơn hữu Đỗ Quyên.

Bài “Dương Châu đối khách” (揚州對客) viết:

Tam nguyệt Duy Dương phú phong cảnh,
Tạm lưu giai khách dữ đồng sàng.
Hoàng hôn nhị thập tứ kiều nguyệt,
Bạch phát tam thiên dư trượng sương.
Ngọc cú thi văn hiền thái thú,
Hồng liên thư ký hảo văn chương.
Dục tầm Hà Tốn cựu Đông các,
Lạc tận mai hoa không đoạn trường.

Bài “Giang lâu lưu biệt” (江樓留別) viết:

Thanh chướng phủ lâu lâu phủ độ,
Viễn nhân tống khách thử kinh qua.
Tây phong Dương Tử giang biên liễu,
Lạc diệp bất như ly tứ đa.

Lại từng ở nhờ Thiên Vương Đường tại Tô Châu (蘇州), thấy hoa hướng dương không biết tên, hỏi người, có người đùa gọi là “Nhất trượng hồng hoa” (一丈紅花), liền đề thơ rằng:

Hoa ư mộc cận hồn tương tự,
Diệp bỉ phù dung chỉ nhất luân.
Ngũ xích lan can già bất tận,
Độc lưu nhất bán dữ nhân khan.

Sách Trạc Anh Đình Bút Ký (《濯纓亭筆記》) cũng chép sau khi nhà Tống mất, Thẩm Kính Chi (沈敬之) chạy sang Chiêm Thành cầu binh phục quốc, Chiêm Thành vì nước nhỏ nên từ chối. Kính Chi bắt chước khóc ở đình Tần mà không được, bèn ở lại nước này. Chiêm Thành tiếp đãi như khách chứ không coi là thần. Kính Chi vì uất ức mà phát bệnh qua đời. Vua Chiêm Thành làm thơ viếng rằng:

Đống khốc Giang Nam lão Cự Khanh,
Xuân phong thức lệ vị thương tình.
Vô đoan thiên hạ biên niên nguyệt,
Trí sử nhân gian hữu tử sinh.
Vạn điệp bạch vân che cố quốc,
Nhất bôi hoàng thổ cái hương danh.
Anh hồn hảo trục Đông lưu khứ,
Mạc hướng biên ngu oán bất bình.

Xem đó thì biết Chiêm Thành không chỉ sơ thông văn tự, mà còn trọng nghĩa khí. Không chỉ thần dân có tài thơ, mà vua cũng giỏi văn chương. Văn vật rực rỡ, danh tiếng sánh ngang Cao Ly (高麗), vượt xa Nhật Bản (日本). Việc Thái Tổ ban chiếu khoa cử cho nước này, thật không phải coi thường, mà là muốn đưa vào hàng ngũ các nước cùng văn hóa, cùng giáo hóa. Thật là hợp lẽ vậy!

Năm thứ 4 (1371), vua Chiêm Thành (占城) sai thần là Đáp Ban Qua Bột Nông (答班瓜卜農) sang triều kiến. Biểu chương dùng lá vàng, dài hơn 1 thước, rộng 5 tấc, khắc chữ nước mình. Sai người phiên dịch, nội dung xin cấp binh khí, nhạc khí và nhạc công, với ý muốn để An Nam biết rằng Chiêm Thành cũng là nơi được giáo hóa, là đất triều cống, thì không dám khinh lấn.

Hoàng thượng cho rằng binh khí tuy không tiếc, nhưng hai nước đang tranh chấp, nếu triều đình chỉ cấp cho Chiêm Thành thì chẳng khác nào giúp một bên đánh nhau, rất không hợp với đạo lý vỗ yên. Còn việc xin nhạc công, tuy âm luật không khác trong ngoài, nhưng tiếng nói thì khác với Hoa Hạ, khó mà sai phái được.

Bèn lệnh Trung thư gửi công văn cho quốc vương, bảo nếu nước họ có người biết tiếng Hoa thì có thể dạy âm luật, chọn vài người đưa đến kinh đô học tập. Đồng thời dụ Hành tỉnh Phúc Kiến miễn thuế hàng hóa của Chiêm Thành tại các bến cảng, để tỏ ý vỗ về.

Năm thứ 8 (1375), Hoàng thượng thấy sứ thần các nước như Chiêm Thành (占城), Chà Và (爪哇) khi đến Trung Quốc thường giả làm thương nhân để lừa dối, bèn ban chiếu cấm ngăn chặn.

Năm thứ 13 (1380), vua Chiêm Thành sai con sang triều cống, chúc mừng vạn thọ thánh tiết. Triều đình dụ không được giao chiến với nước An Nam.

Năm thứ 16 (1383), sai sứ mang văn sách kham hợp ban cho.

Năm thứ 24 (1391), lại vào cống. Nhưng vì nước này có việc giết vua để lập người khác, nên triều đình đoạn tuyệt bang giao.

Năm đầu niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂元年, 1403), sai sứ báo tin lên ngôi. Vua Chiêm Thành là Chiêm Ba Đích Lại (占巴的賴 Indravarman VI) sai sứ mang biểu văn viết trên lá vàng đến chúc mừng, dâng cống vật phẩm địa phương, đồng thời tâu rằng bị An Nam xâm lược, xin ban chiếu dụ. Hoàng thượng sai hành nhân Tưởng Tân (蔣賓), Vương Xu (王樞) sang nước này đáp lễ, ban cho gấm nhung, gấm dệt vàng, lụa văn, sa la, đồng thời dụ vua An Nam là Hồ Hán (胡𡗨) phải ngừng binh, giữ hòa hiếu.

Năm thứ 4 (1406), triều đình ban chiếu cho Đô chỉ huy sứ Quảng Đông tuyển chọn 600 tinh binh, do các viên chỉ huy năng lực giỏi như thiên hộ, bách hộ lãnh đạo, mang theo binh khí, áo giáp, lương khô, theo đường biển đến Chiêm Thành (占城) để hợp binh đánh An Nam. Đồng thời sai nội sứ Mã Tân (馬彬) cùng đi, mang chiếu thư và ban thưởng gồm ấn bạc mạ vàng, lụa sa, đai vàng, 100 lượng vàng, 100 lượng bạc, hai bộ áo gấm dệt vàng và lụa văn cùng các loại tiền tệ nhiều màu.

Vua Chiêm Thành là Chiêm Ba Đích Lại (占巴的賴) sau khi xuất binh, triều đình lại sai nội quan Vương Quý Thông (王貴通) mang lễ vật đến động viên, ban 300 lượng bạc trắng và 20 bộ vải màu.

Năm thứ 5 (1407), Chiêm Ba Đích Lại đã khôi phục được đất bị An Nam xâm chiếm, lại bắt được cha con họ Lê cùng bè đảng, đem nộp làm tù binh, dâng vật phẩm địa phương để tạ ơn. Triều đình ban chiếu khen thưởng.

Năm thứ 6 (1408), vua sai cháu là Xá Dương Cai (舍楊該) mang biểu dâng voi và vật phẩm địa phương. Khi về, triều đình ban cho ấn vàng thật, 100 lượng vàng, 500 lượng bạc, 50 tấm gấm lụa sa la, 100 tấm vải màu.

Từ đó về sau, Chiêm Thành thường xuyên dâng biểu cống tê giác, voi, cùng các đồ vật bằng vàng bạc.

Năm thứ 7 (1409), triều đình sai nội quan Trịnh Hòa (鄭和) cùng đoàn đến ban thưởng cho nước này. Trịnh Hòa chỉ huy hơn 27.000 binh lính, đi trên 48 chiếc thuyền biển. Mùa thu tháng 9 năm ấy, xuất phát từ cảng Lưu Gia, Thái Thương, đến tháng 10 thì dừng tại cảng Thái Bình, Trường Lạc, Phúc Kiến. Tháng 12, ra khơi từ Ngũ Hổ. Giương 12 cánh buồm, thuận gió đi suốt 10 ngày đêm, đến nước Chiêm Thành.

Nước này nằm ven biển, có cảng gọi là Tân Châu[6], phía tây giáp Giao Chỉ (交趾), phía bắc nối đất Trung Quốc. Khi thuyền đến nơi, thủ lĩnh đội mũ vàng ba tầng, mặc khăn hoa gấm, tay chân đeo vòng vàng, đi giày đồi mồi, thắt lưng bằng đai tám bảo, dáng như tượng Kim Cương. Cưỡi voi, trước sau có hơn 500 binh lính hộ tống. Người thì cầm giáo ngắn, người thì múa khiên da, đánh trống, thổi ống dừa. Các viên chỉ huy đều cưỡi ngựa, ra ngoại thành nghênh tiếp chiếu thư. Xuống voi, quỳ gối bò lạy tỏ lòng cảm ơn.

Theo Thất Tu Cảo (《七脩稿》) chép, tại xưởng Thanh Giang Phố (清江浦) ở Hoài An (淮安), trong khu vườn cỏ có mấy chiếc neo sắt, chiếc lớn cao tám chín thước, chiếc nhỏ cũng ba bốn thước, không rõ là vật từ năm nào. Tương truyền là do Tam Bảo Thái giám (三保太監) chế tạo khi xuống biển vào thời Vĩnh Lạc (永樂). Dù bị mưa nắng dãi dầu, nhưng không hề có chút rỉ sét, nhìn như đúc bằng bạc, sáng bóng như vật còn đang dùng hằng ngày. Kẻ ngu này (Nghiêm Tòng Giản) cho rằng chắc chắn được làm từ sắt tốt, nên mới có màu sắc tinh khiết như vậy. Chỉ xét một vật kiên cố to lớn như thế, thì có thể suy ra các vật khác cũng như vậy. Công sức và chi phí bỏ ra thật không thể tính đếm!

Còn danh xưng “Tam Bảo” (三保), không rõ có phải là tên cũ của Trịnh Hòa (鄭和), hay là người phương Tây tôn xưng Trịnh Hòa, Vương Cảnh Hồng (王景弘), Hầu Hiển (侯顯) là “ba vị Thái bảo” mà gọi như vậy?

Năm thứ 8 (1410), vua Chiêm Thành (占城) lại sai sứ là Tế Tiêu (濟標) cùng đoàn mang voi và các đồ vật bằng vàng bạc sang triều cống. Triều đình ban chiếu cho Mã Tân (馬彬) cùng đoàn đưa Tế Tiêu về nước, đồng thời mang chiếu thư và tiền giấy văn tệ ban thưởng.

Năm thứ 11 (1413), vua lại sai cháu là Xá A Na Sa (舍阿那沙) vào cống. Binh bộ thượng thư Trần Hiệp (陳洽) tâu rằng: “Khi khởi binh đánh giặc họ Lê (Quý Lý) và Trần Quý Khoách (陳季擴 Trùng Quang Đế), vua Chiêm Thành tuy nghe lệnh xuất binh, nhưng thực lòng hai mặt, muốn giữ quan hệ môi răng, do dự quan sát, chậm trễ không tiến. Đến khi tiến đến Hóa Châu thì cướp bóc dữ dội, lại đem vàng bạc, voi chiến giúp Trần Quý Khoách. Quý Khoách đáp lại bằng mỹ nữ, lại hẹn với cậu là Trần Ông Đĩnh (陳翁挺) cùng hơn 30.000 người làm bè đảng, xâm chiếm 4 châu 12 huyện thuộc phủ Thăng Hoa. Tội ấy ngang với Giao Chỉ, xin phát binh đánh.”

Hoàng thượng cho rằng đường xuất binh phải qua Giao Chỉ, mà dân Giao đang yên ổn làm ăn, không nỡ dùng binh khiến họ vất vả cung ứng. Chỉ sai sứ mang chiếu thư đến dụ Chiêm Ba Đích Lại (占巴的賴) mà thôi.

Trước đó, Chiêm Thành định kỳ ba năm một lần triều cống, giống như nước An Nam. Năm ấy triều đình sai hành nhân đến động viên. Từ đó về sau, mỗi khi vua kế vị đều xin phép triều đình, cũng sai sứ sang làm lễ.

Năm thứ 16 (1418), vua Chiêm Thành (占城) lại sai sứ dâng voi quý. Hàn lâm nho thần Kim Ấu Tư (金幼孜) làm bài phú dâng lên, có lời tựa như sau:

“Cúi nghĩ Hoàng thượng nhận mệnh trời, nối nghiệp lớn, nhân đức lan khắp thiên hạ, giáo hóa trùm khắp lục hợp. Vì thế, từ nơi trăng mọc Phù Tang đến đất thẳm đầu xăm tóc đỏ, không ai không vượt núi băng biển, chạy đến triều cống. Từ thời Tam Đại đến nay, chưa từng có thời nào thịnh như hiện tại. Vào tháng 9 mùa thu năm Vĩnh Lạc thứ 16, nước Chiêm Thành dâng voi. Hình dáng kỳ lạ hùng tráng, da đen như ngọc, có vằn trắng như sao sáng, rực rỡ như mây trời. Biết quỳ lạy, thuần phục không sợ hãi, thật là điềm lành hiếm có, biểu hiện cho thời thái bình thịnh trị.

Trong muôn loài, voi là loài mạnh mẽ dũng mãnh nhất, không như hổ báo gấu chó có thể dùng sức chế ngự. Nay Chiêm Thành dâng voi, không chỉ để khoe hình dáng đẹp đẽ, mà còn vì nó thuần thục như thú lành, cho thấy đức thánh lan xa, đến cả cỏ cây chim thú cũng thấm nhuần ân huệ. Sự cảm hóa ấy, chẳng khác gì chim phượng về, muôn thú múa, là điềm lành lớn vậy.

Thần hèn mọn giữ chức nơi văn đài, may gặp thời thánh minh, thường thấy điềm lành, không thể không ghi chép ca ngợi thái bình. Cúi đầu dâng bài phú rằng…”

(Sau đó là bài phú dài ca ngợi công đức hoàng đế, sự thần kỳ của voi quý, và sự cảm hóa của thiên triều lan đến muôn phương, với văn từ trau chuốt, hình ảnh rực rỡ, mô tả voi như linh vật trời ban, được các thần linh hộ tống vượt biển đến dâng vua.)

Năm đầu niên hiệu Tuyên Đức (宣德元年, 1426), hành nhân Hoàng Nguyên Xương (黃原昌) được sai đi ban lịch triều cho nước Chiêm Thành (占城). Vua nước này lễ nghi có phần không nghiêm cẩn. Nguyên Xương là người cương trực, nghiêm nghị ngồi ngay ngắn trách cứ, lời lẽ rõ ràng, khí thế mạnh mẽ. Vua Chiêm Thành cúi đầu tạ lỗi.

Vua nước ấy muốn tặng vàng bạc và vật quý, nhưng Nguyên Xương đều từ chối. Khi về triều, ông tâu lại đầy đủ, đúng sự thật theo lời hỏi. Hoàng thượng rất hài lòng, thăng ông làm Viên ngoại lang bộ Hộ (戶部員外郎).

Theo ghi chép, Nguyên Xương (原昌) là người Sở Khê (楚溪), Phúc Kiến (福建). Đỗ tiến sĩ năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂乙未, 1415), là người cẩn trọng, có khí tiết. Sau khi vâng mệnh đi sứ trở về, lúc ấy phong khí bon chen rất thịnh, Nguyên Xương lấy làm nhục khi phải trôi nổi theo thói tục, bèn xin cáo lão hồi hương.

Năm Chính Thống thứ 6 (正統六年, 1441), vua nước Chiêm Thành (占城) qua đời, con nối ngôi là Ma Ha Quý Do (摩訶貴由)[7] xin kế thừa tước vị. Hoàng thượng ban chiếu thư, sai Cấp sự trung Thư [khuyết danh] làm chánh sứ, cùng phó sứ là hành nhân Ngô Huệ (吳惠) đến phong vương.

Mùa đông tháng Chạp, ngày 23, đoàn sứ khởi hành từ Đông Quản (東管). Hôm sau qua biển Ô Trư (烏豬洋), hôm kế tiếp qua biển Thất Châu (七州洋), trông thấy núi Đồng Cổ (銅鼓山). Ngày tiếp theo đến núi Độc Trư (獨豬山), trông thấy núi Đại Chu (大周山). Hôm sau đến biên giới Giao Chỉ (交趾), có một hòn đảo lớn chắn ngang biển, đá nhọn sắc bén, gió mạnh, thuyền va phải sẽ tan nát, thuyền nhân rất sợ. Chốc lát gió mạnh thổi qua được.

Hôm sau đến ngoài biển La Dương (羅洋) của Chiêm Thành, dừng tại xóm Giao Bôi (校杯)[8]. Ngày 29, vua sai thủ lĩnh ra đón chiếu, thuyền báu, voi ngự, trống nhạc vang dội, cờ xí rợp trời, người mặc áo vải, búi tóc, chạy ngựa trước sau, đến hành cung thiết yến. Vua cưỡi voi ra đón tại cửa quốc đô, đội mũ vàng, đeo anh lạc, trướng vây, giáo kích bày hàng, dùng voi làm vệ binh. Khi chiếu được tuyên đọc, vua cúi đầu lạy nhận mệnh.

Lúc ấy là tháng Chạp, nhưng nước này vẫn nóng. Dân phần nhiều mình trần, sĩ nhân mặc áo gai. Ruộng phía nam lúa đã chín, phía bắc mạ còn xanh.

Năm thứ 7 (1442), đêm Rằm tháng Giêng âm lịch (tức khoảng tháng 2 dương lịch), vua Chiêm Thành (占城) xin được thưởng thức pháo hoa. Dùng trầm hương làm chất đốt, đốt cây lửa, bày nhạc múa rất linh đình. Mỗi đêm đánh trống lấy canh tám làm tiết điểm.

Ngày mồng 6 tháng 5, đoàn sứ trở về, đến biển Thất Châu (七州洋), gặp gió lớn, thuyền suýt bị lật. Chánh sứ Thư [khuyết danh] lo lắng khóc lóc, không biết xoay xở ra sao. Ngô Huệ (吳惠) bèn làm văn tế cầu khấn thần Hỏa (祝融) và Thiên Phi (天妃). Chốc lát trời quang mây tạnh, trông thấy các núi ở Quảng Hải (廣海). Ngày 15 thì cập bến Quảng Hải, rồi trở lại Đông Quản (東莞).

Ngô Huệ (吳惠), tự Mạnh Nhân (孟仁), người Đông Ngô (東吳). Năm 20 tuổi, làm quản vận lương dịch đến kinh đô, trên đường thường ngâm nga cổ thi. Có người nói với huyện lệnh, huyện lệnh lấy làm lạ, cho làm đệ tử viên. Đỗ tiến sĩ năm Giáp Thìn niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂甲辰, 1404). Đất Ngô Động Đình (洞庭) có người đỗ tiến sĩ, bắt đầu từ Huệ. Được bổ làm hành nhân, thích bàn việc chính sự.

Sau khi đi sứ Chiêm Thành (占城) trở về, được thăng làm tri phủ Quế Lâm (桂林). Khi người Man động Nghĩa Ninh (義寧峒蠻) họ Dương kết bè với người Miêu làm loạn, quan trấn thủ và án sát bàn việc phát binh chinh phạt. Huệ ngăn lại nói: “Nghĩa Ninh là đất thuộc ta, ta sẽ đến vỗ về họ. Nếu không nghe, dùng binh cũng chưa muộn.” Bèn ngồi cáng, mang theo hơn 10 người, vào tận động. Núi đá lởm chởm như kiếm kích, người Dao nhảy nhót như bay. Nghe tin thái thú đến, thủ lĩnh ra đón. Huệ dụ rằng: “Ta như cha mẹ các ngươi, nên nghe lời ta.” Mọi người đều vâng dạ. Huệ nhân đó giảng rõ lẽ thuận nghịch, họa phúc. Người Man họ Dương cảm động rơi lệ, giữ lại vài ngày, dẫn đi xem xét các đồn trại, rồi đưa mấy ngàn người hộ tống ra khỏi biên giới, về báo cáo và bãi binh.

Năm sau, đạo tặc nổi lên ở châu Vũ Cương (武岡州), loan tin tôn chủ động Nghĩa Ninh làm thủ lĩnh. Quan trấn thủ và án sát đều trách Huệ. Huệ nói: “Ta xin nhận trách nhiệm.” Bèn sai người đến Nghĩa Ninh. Người Dao từ trên núi trông thấy sứ giả của Huệ, liền vái từ xa, nói không dám phản loạn, lại xin rửa oan vụ Vũ Cương, âm mưu của giặc vì thế bị ngăn chặn. Từ khi Huệ trấn nhậm, không ai dám làm loạn.

Sau được thăng làm Hữu tham chính Quảng Đông (廣東右參政), hưởng lương chính tam phẩm, rồi mất.

Kẻ ngu này cho rằng: vượt biển gặp bão tố là việc ngoài sức người, vậy mà Huệ vào chốn hiểm như thường, không như Thư [khuyết danh] hoảng loạn. Than ôi! Gặp sấm sét mà không lạc hướng, đó là lý do Nghiêu Thuấn thành thánh; gặp gió mà vẫn giữ lòng kính, đó là lý do Trình Tử thành hiền. Khí độ của Huệ, có thể thấy rõ ở đây.

Về sau người Man động phản phúc khó tin, cũng như sóng biển khó lường. Huệ xử sự điềm nhiên, đều do khí độ ấy mà ra, há phải không có căn bản? Xem ông thường ngâm cổ thi, thong dong ngâm vịnh, dưỡng tính nuôi tâm, bên trong vốn đã định sẵn, nên mới có thể bình tĩnh giữa hiểm nguy, định được đại sự như vậy.

Cổ ngữ nói: “Học thuộc 300 bài thơ, mà không biết ứng đối, giao việc chính trị cũng vô ích.” Nay Huệ không chỉ ứng đối giỏi nơi xa, mà còn trị được người Man, thì những bài ông ngâm, thật là văn chương hữu dụng. Mà huyện lệnh lại có thể nhận ra tài ấy qua lời ngâm, thật là con mắt khác thường!

Lại từ đó biết rằng, người xưa đi sứ các nước, trong lúc yến tiệc thường làm thơ bày tỏ chí hướng, đoán được kết quả, sau đều không sai, thật có lý lớn vậy.

Lại xét các sứ thần được sai đến Chiêm Thành, không chỉ một người. Nhưng chỉ có hành trình của Trịnh Hòa (鄭和) được chép trong Tinh Tra Thắng Lãm (《星槎勝覽》), còn hành trình của Ngô Huệ được ghi trong Nhật ký của ông, nên đặc biệt ghi lại để thấy đường đi đã qua, ngày tháng đã trải, để người sau có thể dựa vào mà đi.

Trịnh Hòa đi vào từ Tân Châu (新州), còn Huệ đi vào từ Giao Bôi (校杯). Há chẳng phải hai đường đều thông, mà do thuyền theo gió đậu khác nhau, nên mới khác vậy sao?

Cuối thời Cảnh Thái (景泰末, khoảng năm 1457), Ma Ha Quý Do (摩訶貴由) qua đời. Con là Bàn La Trà Toàn (槃羅茶全) sai sứ vào triều cống, xin được phong vương. Vào thời Thiên Thuận (天順中, 1457–1464), triều đình sai Cấp sự trung Giang Đồng (江彤) và hành nhân Lưu Dần Chi (劉寅之) mang chiếu thư đến phong vương, đồng thời dụ vua Chiêm Thành phải giữ đạo thần tử, ban cho vải màu làm lễ vật.

Vua Bàn La Trà Toàn lại sai sứ là Sa Bà Lợi (沙婆利) dâng biểu vào cống, triều đình ban chiếu thư và vải màu.

Lưu Dần Chi (劉寅之) là người Vĩnh Tân (永新), Giang Tây (江西). Cha ông tên là Mao (髦), là người có hạnh kiểm đoan chính. Năm Mậu Tý niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂戊子, 1408), Mao đỗ hương cống, nhưng trượt kỳ hội thí. Trên đường đi qua sông Trạch, thấy một cô gái sắp chết đuối, kêu cứu. Mao cứu lên thuyền, đưa về nhà, suốt đường giữ lễ nghiêm cẩn. Về đến nhà, vợ hỏi: “Mua thiếp đấy à?” Mao kể lại sự việc. Vợ hỏi cô gái, cô nói: “Tôi vốn là người nhà giàu, nay cả nhà chết chìm. Cảm ân cứu mạng, xin làm tỳ nữ để báo đáp.” Mao nói: “Sao lại thế! Ta còn sức, sẽ đưa cô về.” Liền sai người đưa cô về quê, nhưng chỉ thấy sông nước mênh mông, không còn dấu vết thân thích, đành đưa trở lại. Mao bảo vợ chăm sóc, chờ chọn chồng gả đi. Vợ nói: “Nó không còn nhà, ta cũng không có con. Nếu chàng không có ý lấy làm vợ, để nó theo người khác chưa chắc đã tốt hơn chàng. Có lẽ đây là duyên trời định, cho nó hầu hạ chàng.” Mao kiên quyết từ chối. Có người biết chuyện khuyên can nhiều lần, lâu ngày mới nhận làm vợ lẽ. Sinh được hai con trai: con trưởng là Định Chi (定之), con thứ là Dần Chi (寅之). Hai anh em cùng học văn, giúp nhau tiến bộ.

Dần Chi đỗ tiến sĩ năm Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Thái (景泰甲戍, 1454). Sau khi đi sứ Chiêm Thành về, được thăng làm Viên ngoại lang, rồi nhiều lần thăng chức đến Tham chính. Định Chi làm Đại Tông bá, được ban thụy là Văn Định (文定), là danh thần đương thời. Dần Chi cũng có danh vọng ngang bằng, người đời gọi là “hai khó” (二難 Nhị Nan).

Xét việc của Mao, có ba điều thiện: cứu người khỏi chết là nhân; cùng thuyền mà không loạn là nghĩa; chỉ khi không còn nơi nương tựa mới nhận làm vợ là lễ. Đức dày cảm người, nên được phúc báo con cháu tốt đẹp.

Năm Thành Hóa thứ 6 (成化六年, 1470), vua nước An Nam là Lê Hạo (黎灝)[9] giao chiến với Chiêm Thành (占城). Khi ấy vua Chiêm là Bàn La Trà Toàn (槃羅茶全) đã mất, em là Bàn La Trà Duyệt (槃羅茶悅) nối ngôi. Ông dâng biểu tâu rằng:

“Nước An Nam sai người đến đòi tê giác, voi và báu vật, thần không thuận, liền khởi binh vây đánh nước thần. Quan trấn thủ là anh thần cùng vợ con hơn 50 người bị cướp mất bảo ấn, nhà cửa bị thiêu hủy, hơn 300 quân dân bị giết, nam nữ bị bắt đi không kể xiết. Chúng còn sai người chiếm giữ đất nước thần. Nay thần tạm quản quốc sự, xin được ban ấn phong vương và xin ban chiếu cho An Nam thả người bị bắt.”

Phó giám ty Thị bạc Quảng Đông là Ngụy Xuân (韋春) cũng dâng tấu việc này. Xin bộ Lễ cử quan mang chiếu sang An Nam, răn vua Lê Hạo (黎灝) phải ngừng binh, giữ hòa hiếu. Hoàng thượng phán chưa sai người đi, đợi sứ An Nam đến sẽ viết chiếu giao cho mang về.

Năm thứ 9 (1473), thượng hoàng sai Hữu cấp sự trung khoa Công là Trần Tuấn (陳峻) cùng đoàn mang chiếu sang nước Chiêm Thành, phong Bàn La Trà Duyệt làm vua. Nhưng bị An Nam ngăn trở.

Trần Tuấn và đoàn dâng sớ tâu rằng: “Thần vâng mệnh đến Chiêm Thành ngày 29 tháng Giêng năm thứ 10 (1474). Cửa cảng Tân Châu (新洲) đều do người An Nam canh giữ, không cho vào. Thần thấy người Man vô lễ, sai thông sự Mãn Nguyên (滿源) giải thích lý do đi sứ Chiêm Thành. Mãn Nguyên trở về báo: người Man nói cảng này vua Chiêm đã trả lại cho vua An Nam, hai bên lập mốc phân giới, đều có người canh giữ. Nay vua Chiêm ở núi Linh Sơn. Thuyền đến vùng biển Linh Sơn thả neo, sai Mãn Nguyên lên núi dò hỏi, xem có thật có Bàn La Trà Duyệt hay không. Trở về báo rằng gặp người lánh nạn nói: cả nhà Bàn La Trà Duyệt đã bị An Nam bắt đi, đất đai bị chiếm hết, đổi tên thành châu Giao Nam (交南州). Lại sai tiểu kỳ Diêu Quan Khang (姚官康) đi khắp nơi dò xét, rồi cho thuyền quay về. Mang ấn tín và chiếu thư đã chuẩn bị nộp lại.”

Hoàng thượng ban chiếu cho bộ Binh, cùng Ngũ phủ, Lục bộ, Đô sát viện, Thông chính ty, Đại lý tự bàn nghị. Quyết định: năm sau nếu sứ An Nam vào triều, sẽ đợi đến ngày các quan theo hầu đến, sai thông sự Chiêm Thăng (詹昇) phiên dịch rõ ràng mọi việc, rồi tâu lên để định đoạt.

Trước đó, vua nước An Nam là Lê Hạo (黎灝) cũng dâng biểu tâu rằng:

“Người nước Chiêm Thành (占城) đi thuyền vượt biển cướp phá Hóa Châu của thần, nhà cửa kho tàng đều bị thiêu rụi. Ngoài việc thần đã sai bồi thần Trần Đình Mỹ (陳廷美) mang bản tấu vào kinh trình bày, thì vào tháng 8 năm Thành Hóa thứ 6 (1470), vua Chiêm là Bàn La Trà Toàn (槃羅茶全) lại tự dẫn thủy bộ đánh úp Hóa Châu. Tháng Giêng năm thứ 7 (1471), Trà Toàn nổi giận khởi binh lớn, chém giết quân lính trấn thủ của thần. Thần phá vòng vây, liều chết chiến đấu, Trà Toàn dẫn quân rút về phía nam. Ngày 12 tháng 11 năm nay, thần lại sai bồi thần Nguyễn Đức Chân (阮德真) mang bản tấu vào kinh trình rõ. Trước đó, tháng 3 năm nay, Trà Toàn dốc toàn quân trong nước, mưu tính tái chiến, giả nói là theo chiếu chỉ triều đình đến khảo sát đất Tứ Xuyên (四川) của thần, lấy núi Kê Thạch làm mốc, để dẹp yên tranh chấp. Hắn tự dẫn voi ngựa, mưu phá Nghĩa Châu (義州)[10] của thần, sai em là Bàn La Trà Toại (槃羅茶遂) dẫn quân đi trước, Trà Toàn theo sau. Trà Toại trong lòng hổ thẹn, khí thế suy giảm, sợ thất bại, bèn sai quân mai phục giết Trà Toàn trong hành doanh, rồi tự lập làm vua. Từ đó trong nước rối loạn, lòng người ly tán. Các thủ lĩnh cát cứ, chiêu binh mãi mã, đánh giết lẫn nhau, không ngày nào yên.

Ngày mồng 3 tháng Chạp năm nay, thần kính nhận chiếu dụ rằng: ‘Trẫm đã xem kỹ tấu chương, hiểu rõ sự tình, việc thù hận giết hại lẫn nhau đều không phải là đạo giữ nước yên dân. Hơn nữa, An Nam và Chiêm Thành đều từng được triều đình phong tước ban đất, đời đời triều cống, là phiên bang của Trung Quốc, há có thể gây thù khởi binh, tự tàn sát nhau? Xuân Thu có lời trách cứ. Người hiền nên giữ phận, sửa trị trong nước, giữ gìn bờ cõi, hóa giải oán thù, dứt bỏ tranh chấp. Trước hết phải giữ đạo láng giềng hòa hiếu, nghiêm cấm các thủ lĩnh biên giới không được gây chuyện, sinh sự cầu công. Nếu mượn cớ này để mưu đồ thôn tính, e không phải là phúc của nước ngươi.’ Ôi! Mặt trời mặt trăng soi sáng không thiên vị, cha mẹ thương con đều như nhau. Khiến thần và Chiêm Thành cùng được hưởng trời quang mây tạnh, sống nơi yên bình hòa thuận. Đó là tình thật của thần, cũng là nguyện vọng của toàn dân!

Thần cảm ân sâu sắc, kính cẩn tuân theo lời răn của trời, nghiêm cấm quan lại biên giới không được gây chuyện, giữ vững cương vực, không dám báo thù! Nhưng từ sau khi Trà Toại làm loạn giết vua, lòng người tan rã, ai nấy ly tâm. Tháng Giêng năm Thành Hóa thứ 8 (1472), Trà Toại thân đến biên giới, sai thủ lĩnh Ông Cữu Hư Kế (翁舅虛計)[11] mang thư đến thần, nói rằng anh là Trà Toàn làm hại dân, trái đạo trời, nhà tan nước mất, tự chuốc lấy họa, bị giết là đáng, dân không thuận theo. Trà Toàn vì lo sợ mà sinh bệnh, dân lập em là Trà Toại nắm quyền quốc sự, đã sai sứ vào kinh mang biểu văn lá vàng, xin được nối ngôi vương. Cầu thần cùng đến dưới thành lập minh ước, lấy cửa biển Di Hải Môn (夷海門) làm giới, phía bắc là Nghĩa Châu, phía nam là bắc giới Chiêm Thành. Lại xin thần viện binh vài ngàn người, giúp lập Trà Toại làm vua ở đất Man.

Thần cho rằng hóa giải oán thù, tuân theo thánh huấn là điều nên làm. Việc nước láng giềng phế lập, thần không nên can dự. Bèn sai đại thủ lĩnh Phạm Khác (范慤) đến lập minh ước với Trà Toại. Trà Toại về đến cửa biển Thi Nại (尸耐海口)[12], thì con Bàn La Trà Duyệt (槃羅茶悅) là Trà Chất Đài (茶質苔) cùng các thủ lĩnh, dẫn người Man động ban đêm phục kích bằng nỏ tre, đánh quân Trà Toại. Người Chiêm hoảng loạn, Trà Toại bị loạn quân giết chết. Trà Chất Đài tự lập làm vua, dời đô đến Tinh Trì (晶持). Pháp lệnh tuy nghiêm, nhưng dân càng phản loạn, loạn thần tặc tử tự xưng làm vua có đến mấy chục người. Có kẻ xưng là Ma Ha Chi Ma Chi Băng (摩訶支麻𭜃冰), có kẻ xưng là Ma Ha Tả Bì La Bát (麻訶左皮羅撥), hai phe điều voi, luyện binh, uy hiếp biên giới thần. Những kẻ khác cũng chiếm cứ các nơi. Thần sai thủ lĩnh Trần Cực (陳極) mang thư đến Tả Bì La Bát bàn việc hòa giải, mong yên biên giới, thì bị Chi Ma Chi Băng chặn giết.

Thần lo rằng binh đao liên miên sẽ gây họa, chuốc tội với triều đình, nên đã nghiêm lệnh cho các thủ lĩnh biên giới giữ gìn phòng thủ, không được tiến binh. Nước Chiêm Thành (占城) phía đông giáp biển, phía tây gần người Man, phía bắc giáp Nghĩa Châu của thần, phía nam giáp hai bộ Qui và Tung (龜、賨). Chiêm Thành và Tung Bộ (賨部) đã có hiềm khích từ lâu. Từ đó, người Man ở Tung Bộ (賨部) vui mừng khi Chiêm Thành loạn lạc, thường kéo nhau đi cướp bóc, tụ tập hàng ngàn người, đường sá bị cắt đứt, làng mạc hoang vắng.

Thần ngày đêm suy nghĩ, tự thấy mình đã kính cẩn tuân theo thánh huấn, giữ hòa hiếu, nhưng nước kia suy yếu, loạn lạc không người làm chủ, lại càng tàn sát lẫn nhau, khiến biên giới thần bị uy hiếp. Thần bèn sai thủ lĩnh Lưu Bảo (劉寶) mang thư đến gặp Trà Chất Đài (茶質苔來), hẹn giữ tình láng giềng tốt đẹp, cùng hưởng thái bình, giữ phận kính trời, làm phiên bang của triều đình. Đất đai đã định, há có thể tranh giành.

Tháng 2 năm Thành Hóa thứ 9 (1473), Trà Chất Đài dẫn quân đánh phản thần của thần là Xa Vệ A Ma (奢衛阿麻), nhưng bị Xa Lý A Ma (奢里阿麻) đánh bại. Lưu Bảo cũng bị hại. Sau đó Xa Cánh A Ma (奢更阿麻) tự xưng làm vua, chiếm cứ một vùng. Xa Lý A Ma chết, em họ là Ba Lung A Ma (波籠阿麻) kế vị, nhưng tài kém, thế yếu, lòng người không thuận. Nhiều năm hạn hán, lúa má ít thu, dân phải sống nhờ thú rừng, rau suối. Có được chút lương thực thì tranh giành đến chết.

Dân bị Tung Bộ (賨部) bắt, lại bị trăm loại người Man cướp. Giặc cướp tung hoành khắp nơi, đi lại trong rừng núi, dùng tên tẩm độc bắn người, đầu độc nguồn nước để cắt đường. Chúng leo núi rình rập, trèo cây dòm ngó, thấy thuyền ngoài biển hay người trong rừng là nổi khói thổi tù và, hú gọi đồng bọn. Có kẻ dùng thuyền nhẹ cướp thuyền ngoài biển, có kẻ cưỡi ngựa khỏe cướp hàng trong rừng. Thêm vào đó, hổ, sói, tê giác, voi đầy đường, chỉ có đường biển là thông, nhưng sóng gió rất dữ.

Thần và vua Chiêm Thành đã lâu không liên lạc, giặc cướp lộng hành, gây khổ cho dân. Thủ lĩnh biên giới của thần là Lê Văn (黎文) thấy giặc ngày càng hung hãn, bất đắc dĩ phải phát binh truy đuổi. Chúng liền men theo suối leo núi, trốn trong rừng, ra vào liên tục, khiến dân một vùng khổ vì tên đạn.

Ngày mồng 4 tháng 3 năm Thành Hóa thứ 9 (1473), thần kính đọc chiếu dụ rằng: “Nước ngươi và Chiêm Thành, thế lực lớn nhỏ không cần phân rõ. Nếu bên kia khơi chuyện trước, không biết lượng sức, thì là bất nghĩa. Nếu ngươi không có lý do mà nhân chuyện nhỏ khởi binh, ức hiếp kẻ yếu, cũng chẳng phải là nghĩa. Nay vua nên bỏ qua lỗi nhỏ, càng phải giữ đại nghĩa, đem toàn bộ người bị bắt trả lại. Răn dạy quan lại biên giới không được gây chuyện cầu công, khơi binh kết oán, rồi bị báo phục, tự chuốc tai họa.”

Thần đọc chiếu mà suy nghĩ, mừng lo lẫn lộn, như sấm tan mưa tạnh, trời đất một lòng. Thần kính cẩn tuân theo thánh dụ, toàn bộ nam nữ bị bắt là 741 người, đều đã trả về nước họ, mong sửa lại đại nghĩa, che lấp lỗi trước. Những người ấy đều bị Chi Ma Chi Băng (支麻𭜃冰) và La Bát (羅撥) bắt giữ.

Thần thường ghi nhớ thánh dụ, không khỏi kinh hoàng, càng nghĩ đến đức lớn của trời đất, thật không thiên vị trong việc sinh thành, thì phận làm bề tôi càng không thể quên lòng kính sợ. Trời đất đã soi chiếu bằng lòng nhân chung, bề tôi nào dám trái nghịch mà chuốc lấy tai họa. Vì vậy, từ khi được phong đến nay, thần sớm tối lo sợ, luôn lấy việc không thể giữ gìn đất đai và dân chúng của triều đình làm điều canh cánh. Há dám chiếm lấy điều không thuộc về mình, trái dụ nghịch nghĩa, tự chuốc tội lỗi!

Thần tuy ngu dốt, nhưng cũng biết phân biệt họa phúc. Lại nghĩ, khi nước Chiêm Thành (占城) còn cường thịnh, từng chiếm đất Tứ Xuyên của thần, thần ôm hận với Chiêm, mong phục thù lấy lại đất cũ. Nay nước ấy suy yếu, rối loạn, không người thống lĩnh, dân chúng và binh lính đều khổ sở, không được yên ổn. Thần nhớ lại những ngày yên bình trước kia, càng mong giữ vững đạo láng giềng hòa hiếu. Dù Trà Toàn (茶全) dám trái thánh dụ, gây thù khởi binh, nhưng trời đã soi xét rõ ràng, hắn tự chuốc lấy tai họa, thần cũng không tranh hơn thua với hắn.

Mấy năm nay, dân Chiêm Thành thường gây rối, trên thì xúc phạm thiên tử, dưới thì khiến dân oán hận. Thần trong lúc suy nghĩ, không khỏi lo sợ, cúi mong Hoàng đế bệ hạ lấy đức cương minh, khoan dung rộng lớn, soi xét lòng thần biết sợ mà tự tỉnh, không dám có ý thôn tính, thương xót kẻ lưu lạc mất nước, sớm ban ơn vỗ yên, khiến họ được yên ổn, cùng hưởng cảnh thái bình, để binh dân thần được nghỉ ngơi, mãi không còn loạn lạc. Đó là nhờ cơ mưu chuyển hóa của thánh minh, chẳng phải điều ngu thần có thể đo lường.

Xét việc hưng suy của Chiêm Thành, thật không liên quan đến nước thần. Nhưng Chiêm Thành loạn lạc, lại khiến biên giới thần bị hại. Thần đã nhiều lần dâng biểu cầu xin, biết mình khó tránh khỏi vượt lễ. Nhẫn nhịn chịu đựng, nhưng sao chịu nổi cảnh rối loạn ngày càng dữ dội. Việc ở biên giới phía nam, mỗi bước đều khó. Như giẫm đuôi hổ, như vượt sông sâu, tiến thoái đều khó xử.

Nếu Hoàng thượng lấy lòng bao dung như mưa xuân, tha cho thần tội mạo phạm, ban ơn như mây lành, thể hiện lòng thương xót của trời, thì không chỉ là phúc của nước thần, mà là đại phúc cho cả một phương dân chúng. Khi ấy, các bộ lạc phương nam sẽ hướng về triều đình, đốt hương vọng bái, chúc thánh thọ muôn vạn năm!”

Hoàng thượng bèn lệnh cho bộ Binh bàn nghị.

Năm thứ 11 (1475), Thượng thư bộ Binh là Hạng Trung (項忠) cùng các quan dâng sớ rằng:

“Xét rằng các phiên bang hải ngoại vốn ở ngoài cõi giáo hóa, không chịu chính sóc, không thấm nhuần đạo lý, thường gây chiến tranh, tàn sát lẫn nhau, không liên quan đến lợi hại của Trung Quốc. Từ xưa đế vương trị trong, không nhọc binh với ngoại di, chỉ chăm sửa trị Trung Quốc. Nay hai nước An Nam và Chiêm Thành (占城) ở nơi hải ngoại, mỗi bên giữ một góc, tuy đời đời được phong vương, xa xôi triều cống, nhưng không đủ để làm nhẹ hay nặng việc nước.

Gần đây, Lê Hạo (黎灝) khởi binh lớn, tàn phá đất Chiêm Thành, bắt vợ con vua nước ấy, giết dân chúng, cướp ấn vàng, đốt nhà cửa. Vua Chiêm là Bàn La Trà Duyệt (槃羅茶悅) nhiều lần sai sứ vào kinh kêu oan, được Hoàng thượng soi xét công bằng, ban dụ răn dạy Lê Hạo phải sửa mình, bỏ ác theo thiện, để bảo toàn sinh linh hai nước, cùng mưu kế lâu dài.

Sau đó, các quan như Hữu cấp sự trung Trần Tuấn (陳峻) được sai đến Chiêm Thành phong vương, về tâu rằng vua Chiêm và cả nhà đều bị An Nam bắt, đất đai bị chiếm, đổi tên thành châu Giao Nam (交南州). Hoàng thượng lại khoan dung, đợi sứ An Nam vào triều để phiên dịch, xét xử.

Nay Lê Hạo sai bồi thần vào cống, kể lại rằng vua Chiêm và anh em mưu nghịch, thần dân phản loạn, dân bị hại, nhưng không hề tâu việc chiếm đất Chiêm, đổi tên thành Nghĩa Nam châu (義南州), khác với lời tâu trước của Trần Tuấn. Có thể sau khi Trần Tuấn về, đất đã được trả lại, chưa rõ. Nếu đợi sứ phiên dịch, e họ sẽ giấu giếm, không dám nói thật.

Nay xin không đợi sứ, đặc biệt ban chiếu dụ gửi đến vua An Nam Lê Hạo, đại ý rằng: ‘Biết sợ trời, giữ nước, là kế lâu dài; trái trời, hại dân, là nguồn tai họa. Xét rằng An Nam và Chiêm Thành là láng giềng, phong tục tương đồng, khí chất không khác. Về thế lực, tuy có mạnh yếu, nhưng môi răng liền nhau, mất môi răng lạnh, nên phải thương nhau, không nên khinh rẻ như Tần với Việt. Nay nước ngươi tâu rằng vua Chiêm Trà Toàn (茶全) xâm phạm Hóa Châu, em là Trà Toại (茶遂) giết vua, bị loạn quân giết chết, Trà Chất Đài (茶質苔來) tự lập, dân càng phản, dẫn quân đánh phản thần Xa Lý A Ma (奢里阿麻) nhưng bị thua, sau đó Xa Lý A Ma tự xưng vương, chết rồi em họ là Ba Lung A Ma (波籠阿麻) kế vị, yếu thế, dân không thuận, đất nước đại loạn. Sau đó ngươi phụng chiếu trả lại 741 người bị bắt. Nếu đúng như lời tâu, thì ngươi khởi binh có lý, sau lại sửa mình, giữ đại nghĩa, cũng đáng khen.

Nhưng trước đó vua Chiêm Trà Duyệt tâu rằng: nước ngươi sai người đòi tê giác, voi, báu vật, không được thì khởi binh vây đánh, bắt anh thần cùng vợ con hơn 50 người, cướp ấn báu, đốt nhà cửa, giết dân, chiếm đất, xin được phong vương. Triều đình theo lời ấy, sai Trần Tuấn đến phong vương, về tâu rằng vua Chiêm và cả nhà bị bắt, đất bị chiếm, đổi tên thành châu Giao Nam. Nay lời tâu của ngươi lại khác, e là có che giấu. Đường sá cách trở, khó phân thật giả.

Vả lại, vua Chiêm đang được phong vương, nếu thật sự không lo việc nước, xâm phạm biên giới, hại dân, mưu nghịch, thì tội không thể tha. Nhưng nếu diệt cả tông miếu, dời báu vật, giết dân, chiếm đất, dù có thỏa lòng, cũng trái đại nghĩa. Huống chi nước nhỏ tuy yếu, nhưng truyền nối đã lâu, sử sách còn ghi, chưa từng bị diệt. Nay nếu một sớm bị diệt, không còn người kế tục, e các phiên bang hải ngoại sẽ dòm ngó, có kẻ nhân nghĩa lên tiếng, một tiếng hô mà nổi dậy, lúc đó hối cũng không kịp.

Nếu có thể phục hồi tông miếu, trả lại báu vật, hoàn dân về nước, triều đình cũng sẽ khen ngợi. Mong ngươi suy xét kỹ, chớ để hối hận về sau, lại phải tâu rõ sự thật. Như vậy, ta sẽ có lời lẽ nghiêm chính, không mất thể diện vỗ về; còn ngươi nếu tình sai lý yếu, cũng sẽ tự biết hối cải.’”

Hoàng thượng chuẩn tấu.

Năm thứ 20 (1484), vua nước Chiêm Thành (占城) lại sai sứ vào triều xin được phong vương. Hoàng thượng sai sứ thần Phùng Ngãi (馮乂) cùng đoàn đến sách phong. Khi đến nơi thì vua Chiêm đã bị An Nam bức bách, phải dời sang cư trú tại Xích Khảm Bang Đô Lang (赤坎邦都郎 Panduranga). Không lâu sau, An Nam lại sai binh đến đánh giết ông.

Bấy giờ có một người nước Chiêm tên là Đề Bà Đài (提婆苔者) chiếm giữ cố quốc. Phùng Ngãi do nhầm lẫn đã phong Đề Bà Đài làm vua. Dân nước Chiêm sau đó dâng chương kêu oan. Khi Phùng Ngãi trở về từ Chiêm Thành thì mất trên biển. Phó sứ (khuyết danh) bị luận tội, đày đi biên ải.

Xét theo truyện của hành nhân Lưu Dần Chi (劉寅之) và các sách khác, thì người xin phong trước đây chỉ có Bàn La Trà Duyệt (槃羅茶悅), không hề có tên Trà Toàn (茶全), Trà Toại (茶遂), hay Trà Chất Đài (苔來). Nhưng theo tấu chương của An Nam thì nói Trà Toại giết Trà Toàn để tự lập, rồi Trà Chất Đài lại giết Trà Toại để tự lập. Như vậy thì Trà Duyệt chưa từng làm vua Chiêm Thành. Há chẳng phải Trà Chất Đài sợ mang tiếng phản nghịch nên mượn tên cha để lừa triều đình sao?

Nếu Trà Chất Đài là con của Trà Duyệt, mà lại vượt cha để kế vị, thì Trà Duyệt bị đặt ở đâu? Sứ thần Trần Tuấn (陳峻) từng được sai đến phong Trà Duyệt, nhưng không vào được lãnh thổ, việc ấy xảy ra năm Thành Hóa thứ 10 (1474), đến nay đã 10 năm. Vậy người bị An Nam đánh giết là Trà Duyệt hay Trà Chất Đài cũng không rõ. Trà Duyệt từng tâu rằng “quan trấn thủ của An Nam là anh thần”, thì có lẽ là Trà Toàn. Há chẳng phải Trà Chất Đài giết Trà Toại rồi đổ tội cho An Nam sao?

Nay người bị Phùng Ngãi phong nhầm là Đề Bà Đài (提婆苔), không rõ có phải là Trà Chất Đài (苔來) hay không, hay chỉ là một người mà tên bị viết sai thành hai. Tuy nhiên, tội An Nam xâm lấn là có thật, còn việc nội loạn trong Chiêm Thành cũng không phải hư cấu. Nay mọi việc đều không thể khảo chứng nữa.

Nhưng tấu chương của Lê Hạo (黎灝) được chép đầy đủ trong nhật sao của Lục khoa, từng chữ đều là nguyên văn. Còn các dã sử phần nhiều là truyền miệng, thì Đề Bà Đài chắc chắn là do viết sai từ Trà Chất Đài mà ra.

Năm thứ 21 (1485), Hoàng thượng lại sai sứ phong em trai của cố vương là Tề A Ma Vật Am (齊亞麻勿庵 Jayavarman Mafoungnan) làm vua. Nhưng chưa đến nơi thì Tề A Ma Vật Am đã mất. Hoàng thượng lại sai Cấp sự trung Lý Mạnh Dương (李孟陽) đi phong người em kế là Cổ Lai (古來 Gu Lai) làm vua.

Lúc ấy, An Nam đã thu nhận Đề Bà Đài (提婆苔) và chiếm lấy nước Chiêm Thành, nên tâu rằng Cổ Lai không đáng kế vị. Cổ Lai vượt biển đến Quảng Châu, kêu oan trình bày nỗi uất ức. Lý Mạnh Dương đến Quảng Châu, tâu rằng: “Chiêm Thành hiểm trở, An Nam gây binh chưa yên, mà Đề Bà Đài lại từng chiếm giữ, nay phong Cổ Lai, nếu An Nam không thuận, sẽ tổn uy Trung Quốc. Nên truyền lệnh cho Cổ Lai về nước chờ điều tra, đồng thời ban chiếu cho An Nam hối lỗi.” Hoàng thượng thuận theo, giao cho Tổng đốc Lưỡng Quảng chủ trì việc này.

Đô ngự sử là Đồ Vịnh (屠滽) sai Tham nghị Quảng Đông là Khương Anh (姜英) đến điều tra. Người nước Chiêm đều nói Cổ Lai thật là em vua, có danh phận, nên kế thừa quốc thống. Tấu lên. Đồ Vịnh liền gửi công văn dụ An Nam, kể tội không biết thương xót láng giềng, vạch rõ mưu gian, dẫn dắt về lẽ thuận nghịch. An Nam nghe lệnh, không dám làm càn.

Lý Mạnh Dương bèn đưa Cổ Lai đến Nhai Châu (崖州), làm lễ phong vương rồi rời đi. Đồ Vịnh lại chọn 2.000 quân, sai thương nhân Đông Quản là Trương Tuyên (張宣) dẫn đường, hộ tống Cổ Lai đến cảng Tân Châu (新州港), giúp ông trở về nước.

Theo ghi chép, Lý Mạnh Dương (李孟陽), tự Thời Ung (時雍), hiệu Nam Cương (南岡), là người làng Trường Cương (長岡裡), huyện Thôi (睢). Đỗ tiến sĩ năm Nhâm Thìn niên hiệu Thành Hóa (成化壬辰, 1472), được bổ làm Cấp sự trung khoa Hộ.

Năm Quý Mão (癸卯, 1483), được cử đi kiểm tra tiền lương ở Đại Đồng, đúng lúc giặc Nhung xâm phạm, tình hình rất nguy cấp. Ông trở về dâng mười điều về việc biên phòng. Khi được cử đi sứ Chiêm Thành, ông lưu lại Quảng Châu, được thăng làm Đô cấp sự trung khoa Binh từ xa. Vài năm sau, ông hoàn thành việc xác lập ngôi vị cho Cổ Lai (古來).

Năm Mậu Thân niên hiệu Hồng Trị (弘治戊申, 1488), ông mới trở về triều, dâng năm điều về địa phương:

  1. Trừng trị tệ cũ để sửa quân chính,
  2. Đặt binh bị để trấn giữ biên cương,
  3. Mở nha môn để giải tán tụ đảng,
  4. Tu sửa thành lũy để phòng giặc,
  5. Thông tin triều báo để mở rộng lòng người.

Đa phần được triều đình tiếp thu. Sau đó ông được thăng làm Tham chính Hồ Quảng, rồi trải qua nhiều chức, đến Thượng thư bộ Công ở Nam Kinh.

Năm Bính Dần niên hiệu Chính Đức (正德丙寅, 1506), ông dâng sớ xin cáo lão, được ban lời khen là “thanh liêm, già dặn”. Được ban sắc thư, cấp trạm dịch và lương tháng. Mất vào năm Tuế Lịch, thọ 78 tuổi.

Năm Hồng Trị thứ 3 (弘治三年, 1490), Cổ Lai (古來) dâng sớ tâu rằng:

“Trước đây, nước An Nam bất đạo, dung nạp tướng phản của thần, chiếm nước thần mà trao cho hắn, lại mạo nhận phong vương của triều đình. Nhờ ơn lớn của tiên hoàng, sai Đô hiến là Tô công (屠公) cử quan vượt núi biển điều tra tình hình, ban văn thư cảnh cáo An Nam, khiến thần có được ngày nay, đều là nhờ đức lớn của thiên tử và công lao của Tô công. Thần xin dâng lễ tạ bên ngoài gồm: bạc trắng mấy thỏi, đồ vàng trang sức mấy món, hương quý và vật phẩm phiên bang mấy hộp, gửi theo sứ giả để tạ ơn Tô công, dám liều chết mà xin.”

Hoàng thượng lệnh cho Tô Vịnh (屠滽) nhận. Nhưng ông kiên quyết từ chối, nói: “Lòng nhân vỗ về kẻ xa, nghĩa lớn nối lại dòng dõi, là ở thánh thượng. Thần có công gì đâu!” Hoàng thượng khen ngợi lòng thành của ông, lệnh bộ Lễ ghi lại và cất giữ trong kho quan.

Xét thời Hồng Vũ, Nhật Bản từng sai sứ xin văn từ Tống Liêm (宋濂). Triều đình lệnh cho Liêm soạn. Nhật Bản dâng 100 lạng vàng để tạ, Liêm không nhận. Hoàng thượng hỏi, Liêm đáp: “Người hầu cận thiên tử mà nhận vàng của man di nhỏ, là làm tổn hại thể diện quốc gia.” Nay công lao của Tô Vịnh trong việc định ngôi Chiêm Thành còn lớn hơn việc soạn văn, mà lễ tạ của Cổ Lai cũng không phải là của riêng, vậy mà ông không dám nhận, thì so với Tống Liêm lại càng sáng rỡ hơn.

Tuy nhiên, nếu Tô Vịnh đã không nhận, thì triều đình nên trả lại. Lại nên ban chiếu rõ ràng, nói rằng: “Sau loạn lạc, nước ngươi đang lúc thiếu thốn, triều đình vốn định thương xót, ban ơn giúp đỡ. Nay ngươi lại dâng vàng tạ ơn, tuy là lòng cảm ân muốn báo đáp, nhưng nếu bắt Tô Vịnh phải nhận, thì chẳng phải là dùng đức lớn để ép người nhỏ sao? Nếu thật sự không quên ơn, thì hãy giữ vững vương mệnh, trung thành không đổi. Đó mới là sự báo đáp lớn nhất cho Tô Vịnh, cần gì phải dùng vàng!”

Làm như vậy thì thể diện quốc gia càng thêm chính đại, há chẳng hơn là cất giữ trong kho quan sao?

Năm thứ 18 (1523), Cổ Lai (古來) qua đời. Con là Sa Cổ Bốc Lạc (沙古卜洛 Sha Gu Bu Luo) vào triều xin nối tước vương. Năm Chính Đức thứ 5 (正德五年, 1510), triều đình sai Cấp sự trung Lý Quán (李貫) và hành nhân Lưu Văn Thụy (劉文瑞) mang chiếu đi phong vương.

Lưu Văn Thụy, tự Đình Lân (廷麟), người Tân Hội (新會), Quảng Đông (廣東). Đỗ tiến sĩ năm Tân Mùi niên hiệu Chính Đức (正德辛未, 1511), được bổ làm hành nhân. Khi Chiêm Thành xin phong, triều đình chọn ông đi sứ. Việc xong, ông được thăng làm Cấp sự trung khoa Hình.

Về sau, thời Vũ Tông (武宗), vua nhiều lần xuất tuần, Văn Thụy dâng sớ can gián, lời lẽ hàng ngàn chữ, nhưng không được hồi đáp. Sau được thăng làm Tham sự Hồ Quảng (湖廣僉事), rồi về nhà mất. Văn Thụy là người khảng khái, không màng lợi lộc. Khi mất, không đủ tiền mai táng, dân làng thương tiếc ông.

Năm Gia Tĩnh thứ 1 (1522), các thương nhân từ các nước Chiêm Thành (占城) và Xiêm La (暹邏) đến buôn bán tại Quảng Đông (廣東). Khi đó, thái giám Ngưu Vinh (牛榮) phụ trách ty thị bạc. Nhân lúc hàng hóa chưa khai thuế, ông sai người nhà là Tưởng Nghĩa (蔣義) lén giao dịch, thu mua các vật phẩm. Việc bị phát giác, Tưởng Nghĩa bị xử tội, hàng hóa bị tịch thu sung công. Chi tiết xem thêm quyển về Xiêm La (暹邏).

Từ đó sứ thần Chiêm Thành đến triều cống đúng kỳ, nhưng không thể đều đặn như Triều Tiên (朝鮮). Ở nước này, hễ vua trị vì đủ 30 năm thì vào núi, ăn chay giữ giới, giao quyền cai trị cho con cháu. Ở trong núi 1 năm, vua khấn trời rằng: “Nếu ta không có đạo đức, sẽ bị hổ sói ăn thịt hoặc chết bệnh.” Qua 1 năm mà không việc gì thì trở lại làm vua. Do đó, dân trong nước gọi là “Phương Lai Yên Ha Lạt Trát” (芳嚟焉哈剌札). Theo ghi chép cũ, việc vào núi rồi trở lại làm vua là như vậy. Nhưng xét việc vua mất mới xin phong tước, thì nay không còn tục ấy nữa. Có lẽ chỉ có từ thời xa xưa khi chưa thông hiếu với Trung Quốc.

Trong nước không có sương tuyết, khí hậu quanh năm nóng như mùa hè. Cây cối xanh tốt, ra hoa kết trái quanh năm. Dân nấu nước biển lấy muối, lúa gạo rất ít, người ăn cơm rất hiếm.

Theo tạp chí ghi chép, ở Chiêm Thành (占城) có một giống lúa chịu hạn và chín sớm. Tống Chân Tông (宋真宗) nghe danh, xin giống đem phân phát cho vùng Giang Hoài (江淮) và Lưỡng Chiết (兩浙), chọn ruộng cao để gieo trồng. Chính là giống lúa sớm miền Nam hiện nay (南方早稻尖米 Nam phương tảo đạo tiêm mễ), hạt nhọn, gọi là Hoàng Tiên (黃秈), cũng gọi là lúa Chiêm Thành (占城稻). Như vậy nước ấy đâu phải thiếu gạo, chỉ là lời truyền chưa đúng.

Người dân chủ yếu ăn trầu cau, dùng lá trầu (蔞葉) gói với vôi sò (蠡殼灰), đi đứng ngồi nằm đều không rời miệng. Đất không có tằm tơ, dùng vải trắng (白氎布 bạch điệp bố) quấn từ ngực dài đến chân, áo chật tay hẹp. Tóc búi thành nút, phần còn lại xõa sau lưng. Vua búi tóc sau đầu, mặc áo cát bối (吉貝) hoặc áo trắng, đội mũ vàng ba chóp đính hoa vàng lấp lánh, trang sức bằng thất bảo và anh lạc, đi giày da không mang vớ hoặc đi chân trần, để lộ đùi và ống chân. Đi voi hoặc xe bò lông vàng kéo.

Quan đội mũ lá giao (茭葉冠), đàn ông để tóc bù xù, mặc áo tím. Nếu mặc đồ vàng thì bị xử tử. Ra vào cũng cưỡi voi ngựa. Phụ nữ cũng búi tóc sau đầu, không dùng trâm lược, y phục và lễ nghi như nam giới. Vua đúc vàng làm chủ miếu. Gia súc nhiều bò lông vàng, trâu nước, không có lừa. Có bò núi nhưng không dùng cày cấy, chỉ giết tế quỷ. Trước khi giết, thầy cúng khấn: “A La Hòa Cập Ban” (阿羅和及扳), dịch là: “Sớm cho nó đầu thai.”

Chợ trao đổi không dùng tiền xâu mà dùng vàng bạc, cân đong từng ly từng phân. Hoặc dùng vải gấm cát bối, định giá trao đổi. Khi bệnh, hái thảo dược mà ăn sống. Đất không trồng trà. Chỗ ở của tù trưởng, nhà cửa tường cổng đều bằng gạch, vôi, sứ, dùng gỗ cứng chạm khắc hình thú làm da, ngoài có tường gạch bao quanh. Cũng có thành quách, binh giáp, tên thuốc, dao mác. Chỗ ở của các thủ lĩnh cũng phân cấp bậc. Cửa nhà cao có hạn, dân thường lợp tranh, mái không được cao quá 3 thước.

Cá không ươn không ăn, rượu không có giòi không ngon. Khi nấu rượu, trộn gạo với thuốc viên khô, cho vào vò, niêm phong đúng cách, cất giữ lâu ngày, bã rượu sinh giòi thì là rượu ngon. Khi mở vò, dùng ống tre dài 3–4 thước cắm vào vò, có khi 5 người ngồi quanh, tùy người mà đổ nước vào, lần lượt hút rượu qua ống tre. Hút hết lại đổ nước, nếu không còn vị thì thôi. Nếu còn vị thì niêm lại để dùng tiếp. Có người nói không biết nấu rượu, chỉ uống rượu dừa.

Tù trưởng mỗi năm dùng mật người sống ngâm vào rượu, cùng người nhà uống. Đến ngày lễ chính, tắm bằng mật người, tướng lĩnh dâng mật người làm lễ chúc mừng, gọi là “toàn thân là mật”.

Tập tục của họ thô bạo, gan dạ trong chiến đấu, có người nói dân ở đây rất yếu. Tôn sùng Phật giáo. Mỗi ngày mồng 1 tháng Giêng (âm lịch), dắt voi đi vòng quanh nơi cư trú, rồi đuổi ra ngoài thành, gọi là trừ tà. Tháng 4 có trò chơi chèo thuyền. Định ngày 15 tháng 11 (âm lịch) là ngày chí, mọi người đều chúc mừng nhau. Mỗi ngày 15 tháng Chạp (âm lịch), bên ngoài thành dựng tháp gỗ, vua và dân dâng y phục, hương liệu, thuốc men đặt lên tháp, rồi đốt để tế trời.

Hình phạt cũng có gông xiềng, lỗi nhẹ thì dùng roi mây đánh, có khi từ 50 đến 60 roi, hoặc đến 100 roi. Người bị xử tử thì trói vào cây, dùng lao đâm vào cổ rồi chặt đầu. Nếu cố ý giết người hoặc cướp giết, thì cho voi giẫm chết, hoặc dùng vòi quật xuống đất, voi đều đã được huấn luyện sẵn.

Kẻ phạm gian dâm, nam nữ cùng bị giam vào chuồng bò để chuộc tội. Có người gọi là thi đầu man (尸頭蠻), vốn là phụ nữ, nhưng không có con ngươi nên khác thường. Người phụ nữ này ngủ chung với người nhà, đến đêm khuya thì đầu bay đi ăn đồ ô uế, rồi bay về nhập lại, thân thể sống như cũ. Nếu biết mà bịt chặt cổ hoặc dời thân đi nơi khác thì sẽ chết. Người nào bị bệnh, lúc đi vệ sinh mà gặp phải, yêu khí nhập bụng thì chắc chắn chết. Phụ nữ như vậy rất hiếm, dân gian có nhưng không báo quan, thì cả nhà bị tội. Người ngoại quốc đùa giỡn mà chạm vào đầu họ, tất sẽ có mối hận sinh tử.

Nước này không có giấy bút, dùng da dê đập mỏng, xông khói cho đen, gọt tre nhỏ làm bút, chấm vôi trắng để viết, chữ viết uốn lượn như giun. Ngôn ngữ như chim yến, chim quyên, hoàn toàn nhờ thông ngôn phiên dịch.

Theo văn tự của Chiêm Thành ký, nước này vốn có chữ viết thông dụng và có cả nho sinh. Do đó, giấy bút là vật họ đã có. Tuy ngôn ngữ không thông với Trung Quốc, nhưng thơ văn lại khá tương đồng với Hoa Hạ. Còn việc viết bằng tro trắng có lẽ là chuyện thời xưa, không phải là thói tục hiện nay.

Núi của họ có núi Kim Sơn (金山), nằm trong đất nước cũ của Lâm Ấp (林邑). Đá núi đều có màu đỏ, trong đó có vàng. Vàng ban đêm bay ra, trông như đom đóm. Có núi gọi là Bất Lao Sơn (不勞山), nằm ngoài cửa biển Lâm Ấp (林邑). Người trong nước phạm tội thì bị đưa đến núi này để tự sát.

Sản vật gồm: vàng, bạc, thiếc, sắt, sư tử, voi, tê giác, trâu. Dân bắt được tê giác, voi thì đều phải nộp cho vua. Vào thời Hiển Đức (顯德, 954–960) đời Hậu Chu, từng cống đai tê hình mây rồng. Sừng tê, ngà voi là nhiều nhất. Tê giống trâu nước, con lớn nặng đến 800 cân, thân đen không lông, móng có ba chạc, một sừng mọc ở đầu mũi, dài đến 1 thước 5 tấc.

Ngựa nhỏ hơn la. Có đồi mồi, trầm mộc hương Già Nam (伽南木香), ngọc lửa Triều Hà (朝霞大火珠) to bằng trứng gà, giống như pha lê. Đặt giữa trưa dưới ánh nắng, lót ngải dưới thì phát lửa. Có đá Bồ Tát, nước hoa hồng rắc lên áo, thơm suốt năm không dứt. Dầu lửa mạnh gặp nước càng cháy dữ, người trong nước dùng để đánh thủy chiến.

Còn có nhũ hương, trầm hương, đàn hương, đinh hương, cau, tiểu hồi, gỗ ô bính người bản xứ dùng làm củi, tô mộc, hồ tiêu, bì đinh hương, mây trắng, cây cát bối (吉貝), khi nở rộ như lông ngỗng, rút sợi để kéo thành vải. Cũng nhuộm thành năm màu, dệt thành vải hoa, vải tơ, vải trắng. Có lá bối (貝多葉), long não hương, mía, chuối đỏ, dừa, mít tố nữ (hình như bí đao), công, trĩ núi.

Cống phẩm của họ gồm: voi, ngà voi, sừng tê, công, đuôi công, vỏ quýt, hương xoa thân, long não, hương oải hương, hương kim ngân, trầm hương kỳ nam (奇南香). Kỳ nam xuất phát từ một ngọn núi, tù trưởng sai người cấm dân không được khai thác. Ai vi phạm thì bị chặt tay, nên ở nơi đó cũng rất quý trọng, thích hợp để Trung Quốc xem là vật trân quý. Hương này rất thanh và bay xa, người Trung Quốc dùng để làm đai, có cái giá đến trăm quan. Nhưng sách Tinh Tra Thắng Lãm (《星槎勝覽》) chép là “kỳ nam” (琪楠), khi Phan Tứ (潘賜) đi sứ nước ngoài về, vua nước đó tặng ông. Ghi trong sử thì viết là “kỳ lam” (奇藍), có lẽ đây mới là đúng.

Còn có: trầm hương bản địa, đàn hương, bách mộc, hương vụn đốt, gỗ hoa lê, gỗ mun, tô mộc, hương dây hoa, cỏ dại, vải in hoa đỏ Phiên Sa (番沙紅印花布), vải bông đỏ dầu, vải bông trắng, vải hoa tròn gỗ bông đen, vải viền đỏ hoa, vải viền nhiều màu, khăn tay hoa Phiên, khăn mùi soa hoa Phiên, bông Đâu La (兜羅綿), vải trắng đã giặt sạch bùn.

Việc triều cống ba năm một lần.

Địa giới: phía đông giáp Đông Hải (東海), phía tây giáp Vân Nam (雲南), phía nam giáp Chân Lạp (真臘), phía bắc giáp An Nam (安南), đông bắc đến Quảng Đông (廣東) thuận gió mất nửa tháng, đến Nhai Châu (厓州) mất bảy ngày, rồi đến kinh đô. Sứ thần nước ta đi từ cửa Ngũ Hổ (五虎門) ở Trường Lạc (長樂), Phúc Kiến (閩), theo hướng tây nam, thuận gió thì mười ngày đến cửa biển cách đông bắc 100 dặm. Dựng tháp đá làm mốc, thuyền đến đó thì neo lại.

Theo ghi chép trong sử sách, Biên Vĩnh (邊永), người Nhâm Khâu (任丘), Hà Gian (河間), đỗ tiến sĩ năm Ất Sửu niên hiệu Chính Thống (正統乙丑, tức năm 1445), được bổ làm hành nhân. Năm Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Thái (景泰壬申, tức năm 1452), ông được cử đi sứ Chiêm Thành (占城). Người nước này vốn xảo trá, nhưng Biên Vĩnh lấy thành tín đối đãi, dùng lễ tiết chế, lấy họa phúc lợi hại mà giải thích, khiến dân nước ấy tin phục.

Lại có Diệp Ứng (葉應), người Quế Thiện (歸善), Quảng Đông (廣東), đỗ tiến sĩ năm Mậu Tuất niên hiệu Thành Hóa (成化戊戌, tức năm 1478), ban đầu được bổ làm hành nhân. Khi được thưởng ở Quảng Tây, ông được cử đi phong tặng Chiêm Thành, nổi tiếng là liêm khiết cẩn trọng. Đây đều là những người từng mang mệnh đi sứ Chiêm Thành. Tuy nhiên, Biên Vĩnh không rõ đã làm việc gì, Diệp Ứng cũng không rõ đi vào năm nào, nên khó đưa vào truyện bản quốc, nay tạm ghi kèm đây để chờ bổ sung.

Lại nữa, thi nhân đời Nguyên là Trần Phu (陳孚) từng đi sứ An Nam (安南), có bài thơ ghi lại sự việc rằng: “Uống rượu bằng mũi như bình vại, đầu bay như ròng rọc.” Ý nói người bản xứ có thể dùng mũi uống rượu, có người đầu bay ra biển ban đêm ăn cá, sáng lại trở về nhập vào thân. Tuy nhiên, trong Doanh Trùng Tập (《嬴蟲集》) cũng chép rằng người nước Lào (老撾) dùng mũi uống nước, đầu bay đi ăn cá. Nay Chiêm Thành cũng có người đầu bay, nhưng chỉ là phụ nữ. Chiêm Thành, An Nam, Lào đất liền kề nhau, nên có giống này cũng là điều dễ hiểu.

Còn như sách Thất Tu Loại Cảo (《七修類稿》) chép rằng, gần đây ở Trung Quốc có người tên là Uông Hải Vân (汪海雲), cũng có thể dùng mũi uống và đầu bay, thì quả là chuyện kỳ dị. Nay ghi kèm đây để làm ghi chép dị sự.

Lại nữa, sách Tinh Tra Thắng Lãm (《星槎勝覽》) chép rằng, Chiêm Thành không hiểu chính sóc (lịch pháp), chỉ nhìn trăng mọc là đầu tháng, trăng tàn là cuối tháng, cứ mười lần tròn khuyết như vậy là một năm. Ngày đêm giỏi đánh trống, lấy mười canh làm chuẩn. Tù trưởng và dân thường không đến giờ Ngọ thì không dậy, không đến giờ Tý thì không ngủ. Thấy trăng là uống rượu, ca múa làm vui. Tuy nhiên, xem nhật ký của Ngô Huệ (吳惠), có ghi lại yến tiệc đốt pháo đêm Thượng Nguyên, thì biết họ cũng có tiết lễ, không chỉ dựa vào trăng mọc trăng tàn. Ngô Huệ nói, trống đêm lấy tám canh làm mốc, lại khác với mười canh, cho thấy mỗi thời mỗi khác, không thể nhìn một chiều.

Lại nữa, sản vật Chiêm Thành có thứ gọi là trúc Quan Âm (觀音竹), giống như mây, dài khoảng 1 trượng 8 thước, màu đen như sắt, mỗi đốt dài 2–3 tấc. Đây là thứ mà Thắng Lãm cũng không ghi chép.

   




Chú thích

  1. Phạm Hùng (Champa).
  2. Đàn Hòa Chi 檀和之.
  3. Vikrantavarman I.
  4. Jaya Indravarman IV và Thủy chiến Tonlé Sap.
  5. Xem vua Chân Lạp Jayavarman VII.
  6. Quy Nhơn, Bình Định.
  7. Minh thực lục chép là Ma Ha Bí Cai 摩訶賁該.
  8. Có lẽ liên quan tới tới loại đá làm keo xin xăm âm dương.
  9. Lê Thánh Tông.
  10. Châu Tư Nghĩa, Quảng Ngãi?
  11. Có lẽ là "ông cậu Hư Kế" của Trà Toại.
  12. Cửa Thị Nại.



Nguồn bổ sung:

Tham khảo: