Biên dịch:Thù vực chu tư lục/Quyển 8
Chân Lạp 真臘
[sửa]Hướng chính Nam 正南.
Nước Chân Lạp ở phía tây nam Chiêm Thành, vốn là thuộc quốc của Phù Nam (扶南). Trước kia có một người nữ làm vua, hiệu là Diệp Liễu (葉柳 Queen Soma, Neang Neak). Phía nam có người nước Kích (激國) tên là Hỗn Hội (混潰), đánh Diệp Liễu, bắt hàng rồi lấy làm vợ.
Sau đó có nhà sư Thiên Trúc tên là Kiều Trần Như (橋陳如 Kaundinya)[1] từ Tây Vực đến cai trị nước này, đến thủ lĩnh họ Sát Lợi (剎利) tên là Chất Đa Tư Na (質多思那), ngày càng cường thịnh.
Theo ghi chép ở chùa Tịnh Từ (靜慈寺) Hàng Châu, tạc tượng La Hán năm trăm vị, lấy Kiều Trần Như làm đầu. Nay xem thì Kiều Trần Như chỉ là thủ lĩnh man di, chỉ dạy người thờ Phật, thật không phải là người có phép “ban ngày bay lên trời, hàng long phục hổ”, có linh thánh của chư Phật. Nay lại tôn thờ hương hỏa làm thần thánh thì sự hư vọng đã rõ, chỉ một Kiều Trần Như mà năm trăm vị kia cũng đều là hư vọng. Phật pháp không đáng tin, chẳng phải đã rõ ràng sao![2]
Đến thời Đại Nghiệp nhà Tùy (605–617), bắt đầu thông với Trung Quốc, truyền đến Y Kim Na (伊今那). Đầu thời Trinh Quán (627–649) nhà Đường, thôn tính cả Phù Nam. Phù Nam tức là Tượng Phố (象浦). Đầu thời Vĩnh Huy (650), lại thôn tính các nước nhỏ. Sau thời Thần Long (705), nước chia làm hai: phía nam gần biển, nhiều đầm lầy, gọi là Thủy Chân Lạp (水真臘); phía bắc nhiều núi đồi, gọi là Lục Chân Lạp (陸真臘). Sau lại hợp nhất thành một nước.
Năm Chính Hòa thứ sáu (1116) đời Tống, sai sứ đến triều cống. Năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119), phong làm vua nước Chân Lạp, ngang hàng với Chiêm Thành.[3]
Đến thời Long Nguyên (1163–1173), thủ lĩnh nước này đem quân lớn đánh Chiêm Thành để báo thù, giết gần hết, bắt vua Chiêm Thành đem về, lập người bản quốc làm vua, bắt làm nước thuộc, gọi là Chiêm Lạp (占臘). Quản lý hơn 90 châu huyện: Chân Bồ (真蒲), Tra Nam (查南), Ba Giản (巴澗), Mạc Lương (莫良), Bát Sài (八篩), Bồ Mãi (蒲買), Trĩ Côn (雉棍), Mộc Tân Ba (木津波), Lại Tán Khanh (賴散坑), Bát Ty Lý (八廝里). Còn lại không thể ghi hết. Mỗi nơi đều đặt quan lại, dùng hàng rào gỗ làm thành. Đất rộng hơn 7,000 dặm, có gần 200,000 voi chiến.
Thời Kiến Viêm (1127–1130), nhờ ân ban ngoài thành, phong vua nước này là Kim Bầu Tân Thâm (金裒賓深) làm Giáo Kiểm Tư Đồ, ban thêm thực ấp, từ đó thành lệ thường. Thời Nguyên, Toa Đô Nguyên Soái (唆都元帥) đặt tỉnh Chiêm Thành, thường sai một Bách Hộ mang hổ phù và một Thiên Hộ mang kim bài đến nước này, nhưng đều bị bắt giữ không cho về. Đến thời Chân Trung (1295–1307) nhà Nguyên, sai sứ đến chiêu dụ, nước này mới chịu thần phục.[4]
Đầu thời Hồng Vũ (洪武, 1368–1398) triều Minh, triều đình sai sứ đến nước này để báo tin vua mới lên ngôi. Quốc chủ Hốt Nhi Na (忽兒那)[5] sai thần là Nại Diệc Cát Lang (奈亦吉郎) cùng những người khác dâng biểu chúc mừng và tiến cống sản vật địa phương. Năm thứ sáu (1373), ban cho quốc vương lịch Đại Thống (《大統曆》) cùng các loại gấm vóc và vật phẩm khác.
Năm thứ hai mươi (1387), lại sai hành nhân Đường Kính (唐敬) đến nước này, quốc chủ[6] tiến cống 59 con voi và 60,000 cân hương liệu. Từ đó về sau, việc triều cống không đều đặn.
Đầu thời Vĩnh Lạc (永樂, 1403–1424)[7], triều đình phổ cáo các nước phiên bang hải ngoại về việc vua mới lên ngôi. Sai ngự sử Doãn Thụ (尹綬) đến nước này. Doãn Thụ nhận mệnh, khởi hành từ Quảng Châu, đi bằng đường biển đến Chiêm Thành, rồi từ Chiêm Thành vượt qua hồ nước ngọt (淡水湖 Biển Hồ?) đến châu Bồ Đề Tát (菩提薩州), đi qua chùa Lỗ Ban (魯般寺) rồi đến Chân Lạp.
Theo ghi chép, ở Chân Lạp có mộ của Lỗ Ban (魯般) nằm cách cửa nam thành khoảng một dặm. Thành này rất vuông vức, mỗi phía đều có một tháp đá, dân gian truyền rằng Lỗ Ban đã xây dựng toàn bộ trong một đêm. Tuy nhiên, Lỗ Ban vốn là người nước Lỗ (魯), sao lại có mộ ở Chân Lạp?
Ngày nay, người ta xem Lỗ Ban như một vị tiên còn sống trên đời, đi khắp nơi, hễ thấy cung điện, tháp, cầu nào có kiến trúc kỳ diệu thì đều cho là do ông xây dựng. Không chỉ ở Trung Quốc mà cả các nước ngoại di cũng vậy. Thế thì sự hoang đường đã rõ!
Doãn Thụ (尹綬) sau khi vào nước Chân Lạp, đã trình bày đầy đủ ý chỉ của triều đình về việc cử sứ thần, lời lẽ hào sảng, thể hiện rõ cả uy lẫn tín. Vua man di kính sợ, tuân theo mệnh lệnh. Khi Doãn Thụ trở về, suốt hành trình đường biển đi qua, ông đã ghi lại tỉ mỉ các đảo, núi sông hiểm trở, địa giới liên tiếp, cùng những gì mắt thấy tại kinh đô nước ấy, tất cả đều được vẽ thành bản đồ dâng lên triều đình. Vua rất vui mừng.
Thời Nguyên Thành Đế (成帝, trị vì 1294–1307)[8], sai Chu Đạt Quan (周達觀) người Vĩnh Gia (永嘉) đi chiêu dụ Chân Lạp. Ông đi về mất một năm rưỡi, nắm rõ phong tục, đường sá, sản vật biển và đặc sản địa phương của nước này, rồi viết thành sách Chân Lạp Phong Thổ Ký (《真臘風土紀》).
Sách ghi: nước này tự xưng là Cam Bột Trí (甘孛智). Từ Ôn Châu (溫州) ra khơi, đi theo hướng Đinh Mùi (丁未針), qua các vùng Phúc Kiến, Quảng Đông, vượt Thất Châu Dương (七州洋), qua Giao Chỉ (交趾), Chiêm Thành (占城), đến Chân Bồ (真蒲), là địa giới Chân Lạp.
Từ Chân Bồ đi theo hướng Khôn Thân (坤申針), vượt biển Côn Lôn (崑崙洋) vào cảng. Có hàng chục cảng, nhưng chỉ cảng thứ tư là tàu lớn vào được, các cảng khác đều cạn, không thông tàu lớn. Tuy nhiên, khắp nơi đều là dây leo, cổ thụ, cát vàng, lau trắng, cảnh vật mờ mịt khó phân biệt, nên việc tìm cảng là điều rất khó với người đi biển.
Từ cửa cảng đi về phía bắc, xuôi dòng mất nửa tháng thì đến châu thuộc là Tra Nam (查南). Đổi sang thuyền nhỏ, xuôi nước hơn mười ngày, qua Phật Thôn (佛村), vượt biển nước ngọt thì đến nơi.
Nói chung, đi biển nhất thiết phải dùng kim chỉ hướng, đặc biệt cần đá nam châm để dưỡng kim. Đá nam châm lấy từ núi Phật Tự (佛字山) ở Phúc Kiến, nơi có thần linh rất thiêng. Ai muốn lấy đá đều phải cầu thần trước, nếu được thần cho phép thì mới lấy được, nếu không thì chỉ là đá vô dụng.
Đầu thời Hồng Vũ, có người ở Thượng Nhiêu (上饒) tên là Hứa Mục (許穆), đỗ Minh Kinh, được bổ làm huyện thừa Chính Hòa (政和縣丞), có chính tích tốt, được khen ngợi là thanh liêm. Hết ba năm nhiệm kỳ, hành lý đơn sơ. Có người khuyên: “Ông đã từ chối lễ vật của người khác, núi Phật Tự có đá nam châm, sao không đến lấy để làm lộ phí?” Hứa Mục bèn đến lấy, không hề cầu thần, nhưng hễ chạm tay vào là được đá nam châm. Dùng để dưỡng kim thì kim tự động dựng đứng, nối liền 5–6 chiếc không đứt. Tổng cộng được vài chục cân, đem về kinh sư. Gặp lúc đại quân chuẩn bị ra biển, cần đá nam châm để làm kim chỉ nam rất gấp, ông đem bán, mỗi cân đổi được một cân bạc. Dân gian đến nay vẫn truyền chuyện ấy.
Biển cả mênh mông, không có kim chỉ nam thì không đi được. Phép này bắt chước xe chỉ nam của Chu Công, nên gọi là kim chỉ nam. Đá nam châm vận hành kim cũng là trời đất tạo nên, không phải sức người. Nay xem việc Hứa Mục được đá mà giúp giữ liêm khiết, há chẳng phải là thần vật sinh ra đều có thần linh cai quản đó sao?
Năm thứ hai (1404)[9], có một viên hoạn quan được cử đi sứ, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị trở về thì có ba người trong đoàn tùy tùng trốn ở lại. Quốc vương Chân Lạp bèn lấy ba người bản quốc thay thế, đưa theo viên hoạn quan về triều.
Vua nói: “Người Trung Quốc tự ý trốn ở lại nước họ, thì sao lại bắt họ phải bồi thường? Huống chi ba người này ngôn ngữ không thông, phong tục không quen, trẫm giữ lại để làm gì? Hơn nữa, ai cũng có gia đình, lẽ nào lại bỏ xứ mà ở Trung Quốc?”
Bộ Lễ cấp áo quần, lương thực và lộ phí, rồi cho họ trở về. Thượng thư Lý Chí Cương (李至剛) tâu: “Thần cho rằng ba người Trung Quốc kia chắc không phải tự ý trốn, mà là bị nước ấy dụ dỗ giấu đi. Vậy thì ba người này cũng không nên cho về.”
Vua nói: “Làm vua thì nên lấy lòng trời đất mà đãi người, cần gì phải nghi ngờ mưu gian?” Cuối cùng vẫn cho họ về.
Năm thứ hai (1404), quốc vương Tam Liệt Bà Bì Nha (參烈婆毗牙)[10] sai phó thần Nại Chức (柰職) cùng tám người khác vào triều cống sản vật địa phương. Triều đình ban thưởng lụa sa và tiền tệ.
Năm thứ ba (1405), Tam Liệt Bì Nha (參烈毗牙) qua đời. Triều đình sai vương tử Tự Ban Vương Tư (序班王孜) đến tế. Đồng thời phong con trưởng là Tam Liệt Chiêu Bình Nha (參烈昭平牙)[11] làm quốc vương, ban thưởng gấm vóc và các vật phẩm khác.
Năm thứ mười chín (1421), Tam Liệt Chiêu Bình Nha sai sứ dâng biểu văn thêu chỉ vàng, cùng voi thuần và các sản vật địa phương.
Năm Cảnh Thái thứ ba (1452), Chân Lạp vào triều cống. Triều đình ban thưởng cho quốc vương: Gấm: 2 tấm Tơ ramie: 6 xấp Lụa sa la: 4 xấp
Cho vương phi: Tơ ramie: 4 xấp Lụa sa la: 3 xấp
Những người đi theo như đầu mục, tổng quản thông sự, hỏa trưởng đều được ban áo quần, tơ ramie, vải lụa tùy theo chức vị.
Từ đó về sau, việc triều cống không dứt.
Thành của nước này chu vi khoảng 20 dặm. Có hào đá rộng hơn 20 trượng. Trong thành có hơn 10,000 hộ dân. Toàn quốc có 30 thành, mỗi thành có vài nghìn hộ.
Trên cổng thành có 5 đầu tượng Phật bằng đá lớn, quay về bốn hướng; tượng chính ở giữa được trang trí bằng vàng. Giữa quốc đô có một tháp vàng, bên cạnh có hơn 20 tháp đá, hơn 100 gian nhà đá, phía đông có một cây cầu vàng, hai con sư tử vàng đặt hai bên cầu, tám tượng Phật vàng đặt dưới các nhà đá.
Cách tháp vàng về phía bắc khoảng 1 dặm có một tháp đồng, cao hơn tháp vàng, nhìn lên sừng sững. Lại đi thêm 1 dặm về phía bắc là đến hoàng cung. Mái chính điện lợp bằng chì, đầu mái hùng vĩ, hành lang dài, đường đi quanh co, cao thấp xen kẽ. Nơi vua làm việc có cửa sổ vàng, treo 40–50 tấm gương.
Trong hoàng cung còn có một tháp vàng, vua ngủ ở đó vào ban đêm. Dân bản xứ nói trong tháp có một con yêu xà chín đầu, là thần thổ địa của cả nước. Hình nữ, mỗi đêm hiện ra gặp vua, cùng ngủ và giao hoan. Dù là vợ chính cũng không dám vào. Đến canh hai mới rời đi, lúc đó vua mới được ngủ cùng vợ thiếp. Nếu yêu xà một đêm không hiện, vua sẽ chết. Nếu vua một đêm không đến, ắt gặp tai họa.
Quan lại và dân thường đều lợp nhà bằng cỏ, chỉ có miếu tổ và phòng ngủ chính được phép lợp ngói. Quy mô nhà cửa tùy theo cấp bậc. Cung điện và dinh thự đều quay mặt về hướng đông. Nam nữ đều búi tóc, tóc rủ qua tai, tính tình nhanh nhẹn, tay phải là tay sạch, tay trái là tay dơ. Tập tục ở các huyện, trấn giống Chiêm Thành.
Việc buôn bán đều do phụ nữ đảm nhiệm. Người Hoa đến đây, trước tiên phải cưới vợ bản địa, vừa để thuận lợi buôn bán. Mỗi ngày có một phiên chợ, từ giờ Mão đến giờ Ngọ thì tan. Không có cửa hàng cố định, chỉ trải chiếu trên đất. Phải nộp tiền thuê đất cho quan. Giao dịch nhỏ dùng gạo, hàng hóa Trung Hoa; giao dịch lớn thì dùng vàng bạc.
Người bản xứ rất kính trọng người Hoa, gọi là “Phật”, quỳ lạy sát đất. Gần đây cũng có kẻ lừa gạt người Hoa. Nếu dân bản xứ giết người Hoa thì phải đền mạng; người Hoa giết dân bản xứ thì bị phạt tiền. Không có tiền thì bán thân chuộc tội.
Trong nước có các chức quan như thừa tướng, tướng soái, tư thiên… dưới đó có các ty lại, chỉ khác tên gọi. Phần lớn là người trong hoàng tộc, nếu không thì phải dâng con gái làm tần phi. Nghi lễ ra vào có phân cấp: kiệu vàng có bốn cán dù vàng là cao nhất, hai cán là bậc kế, thấp hơn thì chỉ dùng dù bạc một cán.
Ở các đảo xa, làng mạc hẻo lánh, người dân đen đúa xấu xí, gọi là Côn Lôn (崑崙). Nhưng cung nữ và phụ nữ ở Nam Bằng (南棚乃府第) thì nhiều người da trắng như ngọc. Phụ nữ nói chung chỉ quấn một mảnh vải quanh eo, nam nữ đều để hở ngực, búi tóc, đi chân trần. Dù là vợ vua cũng như vậy.
Vua có năm vợ: một chính thất, bốn người ở bốn phương. Ngoài ra còn có ba đến năm nghìn tần phi, ít khi ra khỏi cửa. Nhà nào có con gái đẹp đều bị triệu vào cung làm việc. Những người này đều có chồng, sống lẫn với dân thường, chỉ khác là trước trán bị cạo tóc, bôi chu sa và hai bên tóc mai để phân biệt.
Từ thời Kiều Trần Như (橋陳如) dạy dân thờ thần trời, mỗi sáng đều tụng kinh chú, nên dù đời đổi thay, người dân vẫn trọng các vị sư. Khi con gái lên 9 tuổi, gia đình sẽ mời sư làm lễ Phạn pháp, bỏ thân trẻ, điểm dấu trên trán để cầu may, gọi là Trận Thảm (陣毯).
Nhà nào nuôi con gái, cha mẹ đều cầu nguyện: “Mong con có người cần, sau này lấy được cả ngàn vạn chồng.” Mỗi năm vào tháng 4 âm lịch (tương ứng khoảng tháng 5–6 dương lịch), nhà có con gái làm lễ Trận Thảm phải báo quan trước, rồi chuẩn bị một cây nến lớn, khắc dấu trên thân nến. Đến đêm, khi đốt nến cháy đến dấu khắc thì là thời điểm làm lễ.
Trước đó phải chọn sư, mỗi nhà đều có người quen. Sư giỏi thường được nhà giàu chọn, biếu rượu, gạo, vải vóc, trầu cau, đồ bạc… có khi đến cả trăm gánh. Vì vậy nhà nghèo thường phải đợi đến 11 tuổi mới làm lễ, do khó chuẩn bị lễ vật. Cũng có người bỏ tiền giúp con gái nhà nghèo làm lễ, gọi là “làm việc thiện”. Tuy nhiên, mỗi năm một sư chỉ làm lễ cho một cô gái.
Con gái 10 tuổi thì được gả chồng. Nhà có cưới hỏi thì trong 8 ngày không ra khỏi nhà, ngày đêm đều thắp đèn không ngừng.
Văn thư ở nước này đều viết trên da con hoẵng hoặc nai, được nhuộm đen. Dùng phấn nghiền thành từng thanh nhỏ gọi là “thoi” (梭) để viết chữ. Chữ viết xong không bao giờ phai.
Họ lấy tháng 10 âm lịch của Trung Quốc làm tháng Giêng, và cũng có tổ chức lễ hội pháo hoa. Dùng gỗ ghép lại, buộc thành giàn cao hơn 20 trượng (khoảng 66 mét), lắp pháo hoa và pháo nổ lên trên. Đến đêm, quốc vương ra xem và đích thân châm lửa. Dù ở cách xa trăm dặm cũng thấy được. Pháo lớn như đại bác, tiếng nổ vang động cả thành. Quốc vương cũng mời sứ thần đến xem.
Mỗi tháng đều có một lễ hội đặc biệt:
- Tháng 4 âm lịch: ném cầu
- Tháng 5: rước nước Phật, dâng nước cho quốc vương tắm, có lễ rước thuyền trên cạn
- Tháng 7: đốt lúa mới, rước lúa chín đến ngoài cửa nam đốt để cúng Phật
- Tháng 8: lễ Ai Lam (挨藍), có ca nhạc, múa hát, đấu heo, đấu voi
- Tháng 9: săn bắn lớn, tập hợp đông người
- Tháng nhuận 9: vẫn giữ nguyên, không đổi lịch
Người dân cũng có kiến thức thiên văn, có thể tính toán nhật thực, nguyệt thực. Một đêm chia làm bốn canh.
Trong dân gian, việc tranh tụng dù là chuyện nhỏ cũng đều phải trình lên quan. Ban đầu không có hình phạt đánh roi hay gậy, chỉ xử phạt bằng tiền. Đối với tội đại nghịch hay trọng án, cũng không có xử trảm hay thắt cổ, mà chỉ đào hố ngoài cửa tây thành, chôn sống tội nhân bằng đất đá, đắp kín lại là xong.
Các hình phạt nhẹ hơn có thể là chặt tay chân, ngón tay, hoặc cắt mũi. Tuy nhiên, hành vi gian dâm và cờ bạc thì không bị cấm. Nếu chồng phát hiện vợ ngoại tình, có thể dùng hai khúc củi kẹp chân tình địch, đau đớn không chịu nổi, buộc phải dâng hết tài sản để được tha. Tuy nhiên, cũng có kẻ lợi dụng dàn cảnh để lừa gạt.
Ngoài ra còn có cái gọi là “thiên ngục”. Đối diện hoàng cung có 12 tháp đá. Khi có tranh chấp không thể phân xử, các bên sẽ bị nhốt riêng vào từng tháp. Ai vô lý thì sẽ sinh bệnh mà ra, ai có lý thì không hề hấn gì. Dựa vào đó để phân định đúng sai.
Nếu trong nhà mất trộm mà kẻ tình nghi không nhận, sẽ đun dầu sôi, bắt người đó thò tay vào. Nếu đúng là kẻ trộm thì tay sẽ bị thối rữa, nếu không thì da thịt vẫn nguyên vẹn. Pháp luật của người phiên bang là như vậy.
Người chết không dùng quan tài, chỉ lấy chiếu tre hoặc vật tương tự, phủ vải lên trên. Tang lễ vẫn có cờ xí, trống nhạc. Thi thể được đem bỏ ở nơi hoang vắng, nếu có chim ưng hoặc chó ăn hết thì được xem là cha mẹ có phúc báo; nếu không bị ăn thì cho là có tội.
Ngày nay cũng bắt đầu có người hỏa táng, phần lớn là hậu duệ người Hoa. Khi cha mẹ mất, không có chế độ tang phục rõ ràng. Nam thì cạo tóc, nữ thì cắt tóc ở đỉnh đầu thành hình đồng tiền để tỏ lòng hiếu.
Quốc vương thì vẫn được chôn trong tháp.
Đất đai ở nước này màu mỡ, không có ranh giới ruộng vườn, ai có sức thì cứ khai khẩn mà canh tác. Một năm có thể gieo trồng và thu hoạch ba đến bốn vụ, vì khí hậu quanh năm như mùa hạ, không biết đến sương tuyết.
Rượu có bốn loại:
- Mật đường tửu: dùng men thuốc hòa với mật ong và nước, tỷ lệ nước bằng một nửa.
- Bằng Nha tửu: dùng lá cây Bằng Nha (朋牙) để ủ.
- Bao Lăng Giác tửu: dùng gạo nấu thành.
- Đường Giám tửu: dùng đường làm thành.
Ngoài ra còn có rượu nước lá lác (茭漿酒), làm từ nước ép lá cây lác. Việc nấu rượu không bị cấm, vùng ven biển đều có thể chưng cất.
Vùng núi có loại đá vị ngon hơn muối, có thể đẽo thành đồ dùng.
Phụ nữ không biết nuôi tằm dệt lụa, việc may vá cũng không thạo, chỉ biết dệt vải bông. Gần đây người Xiêm đến cư trú, mới bắt đầu nghề nuôi tằm.
Nhà dân thường không có bàn ghế, chậu thau. Nấu cơm dùng nồi đất, nấu canh dùng ấm đất, múc bằng gáo dừa, làm bát nhỏ bằng lá cây, đựng canh không rò rỉ.
Còn trong phủ đệ, nhà giàu và các dịp quốc lễ thì dùng đồ bằng vàng bạc. Trải da hổ, báo, cheo, nai dưới đất, thức ăn dùng vải phủ lên. Trong hoàng cung, dùng gấm vóc thêu vàng, đều là quà tặng của thương nhân tàu buôn. Tục ngữ có câu: “Phú quý Chân Lạp” 「富貴真臘。」, là vì vậy.
Quốc vương Chân Lạp ngồi trên giường ngũ hương thất bảo (五香七寶牀), phía trên treo màn báu. Mặc áo Cát Bối sắc triều hà (朝霞吉貝), đầu đội mão hoa bằng vàng chạm ngọc, đeo chuỗi ngọc trai, chân mang guốc da, tai đeo khuyên vàng, thường phục là vải trắng mịn (白氎).
Khi xuất du, phía trước có quân mã hộ tống, phía sau có cờ xí, trống nhạc. Có 300–500 cung nữ, búi tóc hoa, mặc vải hoa, tay cầm nến lớn thành một đội, dù ban ngày cũng thắp nến. Lại có đội cung nữ cầm giáo và khiên làm nội binh. Có xe dê, xe ngựa, đều trang trí bằng vàng. Quan lại cưỡi voi đi trước, tiếp đến là hoàng hậu, cuối cùng là quốc vương đứng trên lưng voi, tay cầm bảo kiếm. Xung quanh có nhiều đội voi hộ vệ, phía trước rước tháp vàng nhỏ và tượng Phật vàng. Người dân đứng xem phải quỳ lạy sát đất, nếu không sẽ bị lính bắt.
Mỗi ngày, vua hai lần thiết triều xử việc. Quan lại và dân chúng muốn yết kiến đều ngồi xếp bằng dưới đất chờ. Khi trong cung vang lên tiếng nhạc, bên ngoài mới thổi ốc báo hiệu. Chốc lát, hai cung nữ vén rèm, vua xuất hiện, tay cầm kiếm đứng sau cửa sổ vàng. Quan lại chắp tay dập đầu, khi tiếng ốc dứt mới được ngẩng đầu. Nếu vua gọi lên điện thì phải quỳ, hai tay ôm lấy cánh tay, ngồi vòng quanh vua. Bàn việc xong thì quỳ lạy lui ra. Vua quay vào, hai cung nữ lại buông rèm xuống.
Nơi vua ngồi có trải da sư tử, là báu vật truyền quốc.
Sản vật của Chân Lạp rất phong phú:
Khoáng sản: có đồng.
Hương liệu quý:
- Kim nhan hương (金顏香): là nhựa cây, có loại vàng nhạt, đen, hoặc trắng như tuyết (loại tốt nhất); nếu lẫn cát đá thì kém. Có thể hòa với các loại hương khác để xức lên người.
- Đốc nậu hương (篤耨香): cây giống tùng bách, nhựa nằm trong vỏ, cây già thì nhựa tự chảy ra gọi là “đốc nậu”; nếu lấy vào mùa đông khi nhựa đông lại thì gọi là “hắc đốc nậu”. Đựng trong vỏ bầu, đốt lên cũng thơm, gọi là “đốc nậu bầu hương”.
- Trầm hương: loại xuất xứ từ Chân Lạp là tốt nhất, Chiêm Thành xếp sau.
- Tốc tạm hương (速暫香): cũng từ Chân Lạp, nếu chặt cây lấy nhựa gọi là “sinh tốc”, nếu cây đổ mục mà nhựa còn thì gọi là “thục tốc”, nếu còn nửa thân cây thì gọi là “tạm hương”; loại vàng và chín gọi là “hoàng thục”, loại đen gọi là “giáp tiễn”.
- Xạ hương mộc: mùi giống rốn xạ.
Bạch đậu khấu: cây như mướp, leo khắp núi đồi, xuân ra hoa, hạ kết quả.
Động thực vật quý:
- Voi, gỗ tô mộc, lông chim phỉ thúy, cây đại phong tử.
- Cây Tỳ Dã (毗野樹): hoa như mộc qua, lá như hạnh, quả như dâu.
- Cây Bà Điền La (婆田羅樹): hoa, lá, quả giống táo.
- Cây Ca Bật Đà (歌畢陀樹): hoa như chim rừng, lá như du nhưng to và dày, quả như mận.
- Cây Am La (庵羅樹): hoa lá như táo, quả như mận.
Thủy sản kỳ lạ:
- Cá Kiến Đồng (建同魚): bốn chân, không vảy, mũi như voi, hút nước rồi phun cao 5–6 trượng.
- Cá Phù Hồ (浮胡魚): tám chân, hình như con dòi có mỏ, giống vẹt.
Vật phẩm triều cống:
- Voi, ngà voi, tô mộc, hồ tiêu, sáp vàng, sừng tê, gỗ mun, gỗ hoàng hoa, trầm hương bản địa, đá quý, lông công.
Địa giới:
- Đông giáp biển Đông
- Tây đến Bồ Cam (蒲甘)
- Nam đến Gia La Hy (加囉希)
- Bắc giáp Chiêm Thành
Đường đi thông đến kinh đô Trung Quốc.
Theo sách Ngô Học Biên (《吾學編》), Bồ Cam (蒲甘) là nước phụ thuộc của Chân Lạp. Nhưng theo Nhất Thống Chí (《一統誌》), chỉ nói Chân Lạp phía tây giáp Bồ Cam, không nói là thuộc quốc.
Lại xét Tống sử (《宋史》), ghi năm Sùng Ninh thứ năm (1106), Bồ Cam sai sứ vào triều cống, triều đình ban lễ nghi ngang với Chú Liễn (注輦), tức một nước man di ở biển. Bộ Thượng thư tâu rằng: “Bồ Cam và quốc vương của họ không thể xem như nước phụ thuộc nhỏ, xin đối đãi như các nước lớn như Giao Chỉ.” Triều đình chấp thuận.
Xét ra, thời Tống rất coi trọng Giao Chỉ, thường xếp trên các nước phiên khác. Như năm Cảnh Đức thứ tư (1007), Giao Chỉ sai sứ Hoàng Nhã Thành vào cống, gặp lúc đại yến ở điện Hàm Nguyên, Tống Chân Tông thấy Nhã Thành ngồi xa, muốn nâng vị trí, hỏi tể tướng Vương Đán. Vương Đán nói: “Triều đình lấy lòng nhân hòa đối đãi phương xa, ưu đãi sứ thần là điều nên làm.” Bèn cho Nhã Thành ngồi ngang hàng quan ngũ phẩm Bộ Lễ. Lại sắc phong vua Giao Chỉ là Lê Long Đĩnh làm Đặc tiến Kiểm hiệu Thái úy, kiêm Tĩnh Hải quân Tiết độ quan sát xử trí sứ, kiêm Ngự sử đại phu, Thượng trụ quốc, ban tước “Thôi thành thuận hóa công thần”.
Từ đó thấy rằng, triều Tống đối với Giao Chỉ rất trọng vọng, mà lại xếp Bồ Cam ngang hàng, thì rõ ràng Bồ Cam xưa không thuộc Chân Lạp. Nay không thấy Bồ Cam thông sứ với triều đình, có thể cuối đời Tống nước yếu, bị Chân Lạp thôn tính, cũng chưa rõ.
Lại nữa, triều Tống phong vương cho các nước phiên, còn ban thêm quan tước, như Giao Chỉ, Chiêm Thành đều vậy. Còn triều ta (Minh) thì ngoài việc sách phong, không ban phẩm hàm, như vậy mới hợp lễ chế.
Xiêm La 暹羅
[sửa]Nước Xiêm La (暹羅) nằm ở cực nam của Chiêm Thành (占城), từ đường biển Chiêm Thành thuận gió đi mười ngày đêm thì đến. Bờ bắc nước này giáp với Giao Chỉ (交趾).
Vùng đất của Xiêm (暹) và La Hộc (羅斛) vốn là hai nước. Xiêm xưa gọi là Xích Thổ (赤土), La Hộc xưa gọi là Bà La Sát (婆羅剎). Đất nước Xiêm khô cằn, không thích hợp canh tác, còn đất La Hộc bằng phẳng, màu mỡ, lúa thóc nhiều. Người Xiêm mỗi năm đều dựa vào đó để sinh sống.
Đầu niên hiệu Đại Nghiệp (大業) nhà Tùy, từng sai sứ giả Thường Tuấn (常駿) từ đường biển phía nam đi đến Xích Thổ, người đời sau truyền sai rằng Xích Thổ là hậu duệ của Xích Mi (赤眉). Sau đổi gọi là Xiêm (暹), đầu niên hiệu Nguyên Trinh (元貞) nhà Nguyên, người Xiêm thường sai sứ vào triều cống. Đến thời Chí Chính (至正), Xiêm quy phục La Hộc, hợp thành một nước.
Theo sách khác chép, lãnh thổ Xích Thổ đúng là trùng với Xiêm La (暹羅). Phía đông giáp nước Ba La Lạt (波羅剌), phía tây giáp nước Bà La Sa (婆羅娑), phía nam giáp nước Ha La Đán (訶羅旦), phía bắc giáp biển lớn, diện tích vài ngàn dặm. Thường Tuấn từ quận Nam Hải (南海郡) đi đường thủy hai mươi ngày đêm, mỗi khi gặp gió thuận thì đến núi Tiêu Thạch (焦石山), rồi đi qua, phía đông nam đến đảo Lăng Già Bát Bạt Đa (陵伽缽拔多), phía tây đối diện với Lâm Ấp (林邑), trên đảo có miếu thần. Lại đi về phía nam đến đá Sư Tử (獅子石), từ đó đảo nối liền nhau. Đi thêm hai ba ngày, nhìn về phía tây thấy núi nước Lang Nha Tu (狼牙須). Rồi đến đảo Kê Lung (雞籠), đến biên giới Xích Thổ. Lâm Ấp nay là Chiêm Thành (占城), xem vậy thì Xích Thổ lại là một nước, giáp ranh với Xiêm. Hơn nữa, sách Tống sử không ghi Xiêm La, chẳng phải là trước kia chưa thông với Trung Quốc sao?
Đầu thời Hồng Vũ (洪武) triều Minh ta, sai Thiếu khanh Đại Lý Tự là Văn Lương Phụ (聞良輔) đến dụ. Vua nước Xiêm La Hộc (暹羅斛) là Tham Liệt Chiêu Côn Nha (參烈昭昆牙) bèn sai sứ vào triều cống, dâng biểu văn bằng vàng lá. Ban cho lịch Đại Thống (《大統曆》).
Theo sách khác chép: “Đầu thời Vĩnh Lạc (永樂), các nước hải ngoại đến xin tiếp nhận giáo hóa. Lương Phụ vâng mệnh đi dụ, từ Xiêm La (暹羅), Java (爪哇) cho đến Cổ Lý (古里) ở Tây Dương.” Vậy thì Lương Phụ chẳng phải đã hai lần đi sứ nước ấy sao?
Năm thứ 7, sứ thần nước Xiêm La Hộc là Sa Lý Bạt (沙里拔) đến triều, tự nói nước mình sai các bề tôi là Tế Tư Lý (祭思里), Sài Thứ Tất Thức Thế (儕刺悉識替) vào cống. Tháng 8 năm ngoái, thuyền đi đến Ô Trữ (烏瀦), gặp gió làm hỏng thuyền, trôi dạt đến Hải Nam. Thu nhặt được vật cống còn sót lại gồm tô mộc, giáng hương, gấm Đâu La đem dâng. Quan tỉnh tâu lên, vua lấy làm lạ vì không có biểu văn, nghi là thương nhân nước ngoài bị lật thuyền, giả nói vào cống, nên từ chối. Sau đó con ông là Tham Liệt Bảo Phi Nha (參烈寶毗牙 Maha Thammaracha II) lên ngôi.
Năm thứ 9, vua sai con là Chiêu Lộc Quần Ưng (昭祿群膺) dâng biểu văn bằng vàng lá, cống voi cùng các thứ như hồ tiêu, tô mộc. Vua sai viên ngoại lang bộ Lễ là Vương Hằng (王恒), tuyên sứ tỉnh Trung Thư là Thái Thời Mẫn (蔡時敏) đến ban cho ấn.
Chiếu rằng: “Con dân nước ngươi, chẳng phải nhờ mệnh sáng của trời, lòng rộng của đất, thì sao được như vậy? Tuy Hoa và Di khác nhau, nhưng niềm vui thuận thiên thì khắp nơi đều thế. Nếu làm người trên mà biết thể đức trời đất yêu sinh, hòa hợp thần người, thì phúc sẽ truyền đến con cháu, đời đời không dứt. Ngươi là Tham Liệt Bảo Phi Nha Tư Lý Đa Lý Lộc (參烈寶毗牙思里哆哩祿), từ khi nối ngôi đến nay, bên trong tu đạo trị nhà, bên ngoài tạo hòa với láng giềng. Huống chi nhiều lần sai người xưng thần vào cống, nói theo các vua phiên hiện nay, thật là đức lớn. Há chẳng được ghi tên trong sách vở sao! Mùa thu năm nay, cống voi vào triều. Trẫm sai sứ đến dụ, đặc biệt ban cho vua nước Xiêm La (暹羅) ấn và một bộ áo, ngươi nên khéo chăm dân nước, mãi hưởng phúc nhiều.”
Vương Hằng cùng Chiêu Lộc Quần Ưng từ biệt, được ban áo gấm và tiền đi đường.
Năm thứ 16, ban cho văn sách kham hợp, lệnh đúng kỳ vào triều cống.
Năm thứ 20, lại cống 10.000 cân hồ tiêu, 100.000 cân tô mộc.
Năm thứ 28, chiếu sai nội sứ Triệu Đạt (趙達), Tống Phúc (宋福) cùng đến tế cố vương Tham Liệt Chiêu Côn Nha (參烈昭昆牙). Ban cho vua kế vị là Chiêu Lộc Quần Ưng (昭祿群膺) 4 tấm gấm hoa, 4 tấm la, 40 tấm vải tơ mộc; vương phi được ban 4 tấm gấm hoa, 4 tấm la, 12 tấm vải tơ mộc. Sắc dụ rằng: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, sai sứ ra ngoài đi khắp bốn phương các nước, chân từng đặt đến 36 nước, tai nghe danh 31 nước; phong tục khác biệt có 18 nước lớn, 149 nước nhỏ. So với nay thì Xiêm La (暹羅) là gần nhất. Sứ đến, biết tiên vương ngươi đã mất. Vua kế tục sự nghiệp tiên vương, có đạo trị nước, dân chúng vui mừng. Nay đặc sai người tế cố vương, mừng vua kế vị có đạo. Sắc đến, chớ trái pháp độ, chớ sa đà hưởng lạc, để rạng danh tổ tiên, hãy kính cẩn vâng theo!”
Năm Vĩnh Lạc (永樂) thứ 1, sai sứ vào chúc mừng vua lên ngôi. Từ đó, nước này chỉ xưng là nước Xiêm La (暹羅).
Năm thứ 2, sai sứ là Khôn Văn Côn (坤文琨) dâng biểu cống sản vật địa phương. Chiếu sai nội sứ Lý Hưng (李興) cùng mang sắc đến an ủi. Đồng thời ban gấm hoa, lụa sa.
Năm thứ 4, lại cống sản vật. Đồng thời xin chuẩn định đơn vị đo lường làm chuẩn trong nước. Chiếu ban sách “Cổ kim liệt nữ truyện” (《古今烈女傳》), cấp cho đơn vị đo lường.
Năm thứ 7, vua sai sứ mang lễ vật tế Nhân Hiếu Hoàng hậu (仁孝皇后), lệnh nội quan báo cáo tại kỷ yến. Năm ấy, lại sai Khôn Văn Côn (坤文琨) cống sản vật. Ban đầu, dân Nam Hải là Hà Bát Quan (何八觀) cùng người khác trôi dạt đến các đảo, rồi vào Xiêm La (暹羅), đến nay theo sứ trở về. Vua lệnh truyền dụ quốc vương, sai đưa Bát Quan cùng người về, không được giữ người trôi dạt để tránh mang tội. Đồng thời mang theo các vật như gấm vàng, tơ gai, lụa sa, gấm dệt.
Năm thứ 8, cống ngựa và sản vật địa phương. Đưa người Trung Quốc trôi dạt trở về. Ban sắc dụ an ủi.
Năm thứ 10, lại cống.
Năm thứ 13, Chiêu Lộc Quần Ưng (昭祿群膺) mất. Con là Tam Lại Ba Ma Trát Lạt Đích (三賴波磨札剌的) nối ngôi, dùng binh xâm lược nước Mãn Lạt Gia (滿剌加). Mãn Lạt Gia dâng thư kiện lên triều đình. Sai sắc dụ, lệnh hòa hiếu với Mãn Lạt Gia. Sắc rằng: “Trẫm kính nhận mệnh trời, làm chủ Hoa Di, thể lòng trời đất yêu sinh mà trị nước, đối xử bình đẳng, không phân biệt. Vua biết kính trời thờ lớn, giữ lễ cống hiến, lòng trẫm rất khen ngợi, chẳng phải một ngày. Gần đây, vua nước Mãn Lạt Gia là Ất Tư Hãn Đáp Nhi Sa (亦思罕答兒沙) nối ngôi, biết kế chí cha, thân dẫn vợ con đến triều cống, lòng thành thờ lớn chẳng khác gì vua. Nay nghe vua vô cớ muốn dùng binh. Mà binh là khí hung, hai bên giao chiến, tất cùng tổn hại. Thích dùng binh chẳng phải lòng người nhân. Huống chi vua Mãn Lạt Gia đã quy phục, là thần của triều đình. Nếu có lỗi, nên trình lên triều đình xét xử, không nên tự ý dùng binh, tức là không coi triều đình ra gì. Việc này chắc không phải ý vua, có lẽ kẻ bên cạnh mượn danh vua, dùng binh để thỏa giận riêng. Vua nên suy nghĩ kỹ, chớ để bị mê hoặc, hòa hiếu với nước láng giềng, không xâm phạm lẫn nhau, cùng hưởng phúc, há có cùng tận sao? Vua nên lưu tâm vậy!”
Năm thứ 15, ban cho vua 4 tấm gấm, 10 tấm tơ gai, 10 tấm lụa sa; ban cho vương phi 6 tấm tơ gai, 6 tấm lụa sa.
Năm thứ 18, lại cống. Sai nội quan Dương Mẫn (楊敏) cùng hộ tống sứ thần về nước, lại ban hậu lễ cho vua.
Năm thứ 19, vua sai sứ là Nại Hoài (柰懷) cùng 60 người vào cống, tạ tội xâm lược nước Mãn Lạt Gia. Ban lụa sa theo thứ bậc.
Năm thứ 21, lại cống. Ban thưởng cho sứ thần cùng các thông ngôn, tổng quản khách nhân, phiên bạn các vật như áo quần, tơ gai, lụa, giày, vớ, dép, vàng bạc, mũ sa... theo thứ bậc. Chiếu định lệ: các sứ thần khi dâng vật phẩm đều được miễn trích phần, cấp tiền theo giá. Ngày phát thưởng xong, cho phép mở chợ tại Hội Đồng quán, trừ sách vở và các loại hàng cấm như vải hoa lớn màu đen, vàng, tím, chàm của Tây Phiên Liên đoạn, còn lại đều được buôn bán. Sứ thần được dự yến hai lần. Khi về đến Quảng Đông, Bộ Chính ty lại mở tiệc đãi.
Thời Hồng Hy (洪熙), Tuyên Đức (宣德), đến đúng kỳ như thường. Ban thưởng cho vua và vương phi, mỗi phần giảm một nửa so với năm Vĩnh Lạc thứ 15. Thời Chính Thống (正統), Cảnh Thái (景泰), việc cống không đều, ban thưởng lại theo lệ cũ.
Năm Thành Hóa (成化) thứ 13, quốc chủ sai sứ là Quần Tạ Đề Tố Anh (群謝提素英), Tất Mỹ Á (必美亞) đến cống sản vật. Mỹ Á vốn là sĩ nhân người Đinh Châu, Phúc Kiến tên là Tạ Văn Bân (謝文彬). Năm xưa buôn muối xuống biển, gặp bão lớn trôi dạt vào Xiêm La (暹羅), rồi làm quan tại đó, chức đến Nhạc Khôn (岳坤). Nhạc Khôn tương đương với học sĩ theo cách gọi của người Hoa. Đến Nam Kinh, người cháu là Tán gặp và nhận ra, cùng dệt vải hoa màu đặc biệt để buôn bán hàng hóa phiên bang. Việc bị phát giác, giao cho quan xét, mới khai thật.
Theo ghi chép, phần lớn sứ thần các nước Di không phải người bản quốc, đều là người Hoa vô liêm sỉ. Đổi tên, ẩn thân, chiếm lấy lộc vị. Do đường xa cách trở, không thể tra xét. Triều đình lại sợ mất lòng người xa, nên mỗi khi sứ thần đến đều hậu đãi, hàng hóa riêng mang theo đều được trả giá gấp đôi, không xét thật giả. Vì lợi mà kẻ gian phản bội theo ngoại quốc ngày càng nhiều, như Tống Tố Khanh (宋素卿) ở Nhật Bản, Tạ Văn Bân (謝文彬) ở Xiêm La, Hỏa Giả Á Tam (火者亞三) ở Phật Lang Cơ (佛郎機), không biết bao nhiêu mà kể. Do đó mà dòm ngó kinh sư, không chỉ là chuyện buôn bán nhỏ. Mọi việc thịnh suy của Trung Quốc, dân cư no đói, quân lương đầy vơi, cùng với tình hình mạnh yếu của Bắc Thát, đều biết rõ rồi về báo. Vì vậy các phiên bang coi thường, có ý khinh nhờn, đều do bọn này gây ra. Người làm việc ở Bộ Binh, há chẳng nên cẩn trọng xét kỹ sao!
Năm thứ 17, sai hành nhân Diêu Long (姚隆, người Lâm Xuyên, Giang Tây, tiến sĩ năm Tân Sửu thời Thành Hóa) đến sách phong quốc vương. Thời Hồng Trị (弘治), cấp sự trung Lâm Hằng (林恒) lại vâng mệnh đi làm lễ sách phong.
Thị lang bộ Hình là Tô Huân (屠勛) tiễn Linh hoàng môn, làm thơ rằng:
“Tháng Tám, thuyền sao vạn dặm đi, Chở theo mưa ân đến thành Man. Tính giờ mỗi bước theo bóng nhật, Màu đất nhìn ra biết địa danh. Lục Giả có tài từng sứ Việt, Ban Sinh không chốn chẳng lênh đênh. Ai bảo biển xanh xa vạn dặm, Mộng bay thường đến chốn Ngọc Kinh.”
Đại học sĩ Dương Nhất Thanh (楊一清) tặng Linh hoàng môn bài thơ rằng:
“Trăm năm văn mạch khắp muôn phương, Đất tận Xiêm La xưa chẳng thông. Phong kiến nhiều lần nêu lễ sáng, Tuyên dương kiêm cả sứ thần công. Trời liền đảo vắng, mây Man lặng, Nắng chiếu biển xanh, mưa độc không. Nghe nói Việt Thường theo hóa giáo, Mấy lần phiên dịch vọng thanh trung.”
Năm Chính Đức (正德) thứ 10, quốc vương sai sứ cống sản vật, dâng biểu văn bằng vàng lá. Chiếu truyền dịch chữ, không ai nhận ra, bộ Lễ tâu lên. Đại học sĩ Lương Trữ (梁儲) dâng sớ rằng:
“Theo trình của Đề đốc Tứ Di quán là Thái thường tự khanh Thẩm Đông Khôi (沈冬魁) cùng các giáo tập chủ bộ Vương Tường (王祥) ở Hồi Hồi quán, thì bản quán chuyên dịch chữ Hồi Hồi, mỗi khi các nước hải ngoại như Chiêm Thành (占城), Xiêm La (暹羅) dâng cống, văn thư cũng do quán này dịch. Nhưng ngôn ngữ, chữ viết của các nước khác với Hồi Hồi, việc phiên dịch hoàn toàn dựa vào thông ngôn giải thích. Khi ban sắc, tặng vật thì đều dùng chữ Hồi Hồi. Nay nước Xiêm La sai người đến kinh dâng biểu văn vàng lá, không ai nhận ra, việc phiên dịch gặp khó. Gần đây, chữ Di ở Bát Bách, Đại Điện cũng đã thất truyền, nội các từng đề nghị tạm giữ người đứng đầu là Lam Giả Ca (藍者歌) ở lại quán để dạy học. Vậy nên theo lệ ấy, chọn một hai người Xiêm La thông thạo chữ Di ở lại quán, đồng thời chọn vài con em các quan trong các quán đến học. Đợi khi học thành, sẽ theo lệ đưa về nước, thật là tiện lợi. Theo đó, thần cho rằng học dịch chữ Di để thông việc triều cống là việc trọng yếu. Nay chữ Di của Xiêm La thật sự thiếu người dạy, nên xử lý như sau: giao bộ Lễ lệnh cho đại thông ngôn và chủ bộ Vương Tường cùng xét lại người Xiêm La thông thạo chữ Di, giữ lại một hai người ở quán để dạy học. Đợi khi có kết quả, sẽ tâu xin đưa về. Như vậy sau này việc phiên dịch sẽ không sai sót.”
Vua chuẩn theo.
Theo ghi chép, năm Hồng Vũ (洪武) thứ 15, triều đình sai Hàn lâm thị giảng Hỏa Nguyên Khiết (火原潔) cùng các người như biên tu Mã Ỷ Xích Hắc (馬懿赤黑) biên soạn sách “Hoa Di Dịch Ngữ” (《華夷譯語》). Vì trước đó người Nguyên không có chữ viết riêng, khi ban hành mệnh lệnh chỉ mượn chữ Cao Xương để ghi âm tiếng Mông Cổ mà truyền khắp thiên hạ, nên triều đình lệnh cho Hỏa Nguyên Khiết dùng tiếng Hoa để dịch ngôn ngữ ấy. Tất cả các mục như thiên văn, địa lý, nhân sự, vật loại, y phục, đồ dùng… đều được ghi chép đầy đủ. Lại lấy “Nguyên Bí Sử” (《元秘史》) làm tài liệu tham khảo, để tra chữ, khớp âm. Sau khi hoàn thành và phát hành, từ đó các sứ thần qua lại vùng sa mạc phương Bắc đều nắm rõ tình hình.
Lại chia các Di tộc làm 18 sở, đặt 60 thông ngôn. Đại thông ngôn có các chức như Đô đốc, Đô chỉ huy… để quản lý các tiểu thông ngôn, chuyên trách việc tiếp nhận cống Di, hàng Di, người Di quy thuận, cùng việc phiên dịch văn thư bằng chữ phiên bang, trình tấu lên triều đình. Đây chính là mô phỏng chế độ tượng tư thời cổ mà đặt ra chức quan này.
Từ đầu triều đến thời Chính Đức (正德) chỉ hơn trăm năm, mà đã đánh mất quy củ ban đầu, vì sao vậy? Hiện nay trong Tứ Di quán có các loại thông ngôn như: học sinh dịch chữ, thông ngôn đội mũ bình đầu, thông ngôn ăn lương, thông ngôn đeo đai, thông ngôn mượn chức… số lượng đã gấp nhiều lần thời Thái Tổ, vậy mà vẫn không thể hiểu văn thư các nước gửi đến, chẳng phải vì phép khảo thí lỏng lẻo, phép thăng giáng bị bỏ, người người ăn lương mà không làm việc hay sao?
Đến thời Gia Tĩnh (嘉靖), như thông ngôn Hồ Sĩ Thân (胡士紳) lại kết bè với phiên bang gian trá, vu hãm chủ sự bản quán là Trần Cửu Xuyên (陳九川) khiến xảy ra án ngục, thì lại càng không thể nói hết. Nay cần chỉnh đốn chức vụ này, để không còn ăn không ngồi rồi, không còn lừa trên làm bậy, khôi phục điển chế tốt đẹp do Thái Tổ lập ra, chẳng phải là việc mà Đại Tông bá (tức bộ Lễ) nên đặc biệt lưu tâm hay sao?
Năm Gia Tĩnh (嘉靖) thứ 1, các tàu biển của Di tộc như Xiêm La (暹羅), Chiêm Thành (占城) chở hàng hóa phiên bang đến Quảng Đông, chưa khai báo thuế. Ty thị bạc do thái giám Ngưu Vinh (牛榮) cùng gia nhân là Tưởng Nghĩa Sơn (蔣義山), Hoàng Lân (黃麟) bí mật mua các loại hàng như tô mộc, hồ tiêu, nhũ hương, sáp trắng… rồi chở đến Nam Kinh. Lại giấu thuế, lén vận chuyển, giao hàng cho quan ở Nam Kinh. Thượng thư bộ Hình là Triệu Giám (趙鑒) đề nghị xử Tưởng Nghĩa Sơn và những người liên quan theo lệ buôn lậu hàng cấm phiên bang. Số tô mộc đáng lẽ phải sung công là 399.589 cân, hồ tiêu 11.745 cân, trị giá hơn 30.000 lượng bạc. Đưa vào nội phủ để dùng công. Ngưu Vinh lấy cớ là nội quan. Vua ban chỉ: số hàng buôn bán đó giao lại cho chủ nhân.
Thượng thư bộ Hình là Lâm Tuấn (林俊) lại dâng sớ rằng: “Xét theo điều lệ hiện hành, người thông thương với phiên bang, ra biển buôn bán mà cướp bóc thì xử tử, cả nhà sung quân biên ải. Mua tô mộc, hồ tiêu từ 1.000 cân trở lên thì sung quân biên ải, hàng hóa sung công. Đó là để nghiêm phân biệt Hoa – Di, ngăn mầm họa loạn. Nay Tưởng Nghĩa Sơn dựa thế quyền, mua nhiều hàng phiên bang, may mà việc giấu thuế bị phát giác, đã dâng tấu về Ngưu Vinh. Bệ hạ vừa chuẩn lời xin xử đúng pháp, lại mở cửa ân huệ, đột nhiên ban chỉ giao lại cho chủ. Vua sáng yêu một cái chau mày, một nụ cười, một chiếc quần rách để chờ người có công. Nay vật trị giá hơn 30.000 lượng bạc, thật có phải là chiếc quần rách? Giao lại cho kẻ có tội, thật có phải là ban thưởng cho người có công? Đó là điều thần không thể hiểu. Cúi xin bệ hạ dấy lên khí cương cường, quyết đoán vụ án này, đem những kẻ thay nhau xin cứu và xin giao lại cho pháp ty, xử tội rõ ràng.”
Vua bèn chiếu rằng: tang vật vẫn sung công như cũ.
Theo ghi chép, hàng hóa trong Di tộc đều là thứ Trung Quốc không thể thiếu. Di muốn bán, Trung Quốc muốn mua. Vì vậy tổ huấn dù cấm Nhật Bản, nhưng ba ty thị bạc vẫn không bỏ. Ty thị bạc ban đầu đặt ở Hoàng Độ, Thái Thương, sau do gần kinh sư nên chuyển sang Phúc Kiến, Chiết Giang, Quảng Đông. Năm thứ 7 bị bãi, chưa lâu lại lập lại. Bởi vì Bắc Di có chợ ngựa, Tây Di có chợ trà, hải Di phương Nam có ty thị bạc. Đó là để thông tình Hoa – Di, chuyển hàng hóa không có, thu lợi thuế, giảm chi phí đồn trú. Lại để cấm biển, kiềm chế thương nhân gian trá, khiến lợi quyền nằm trong tay triều đình.
Tuy nhiên, khi hàng hóa phiên bang đến, đều có nhà tiếp dẫn, trước tiên giao dịch riêng các món giá cao, có khi mất một nửa, có khi mất sáu bảy phần. Sau đó nha nhân mới báo hàng cho quan, lại có người như Ngưu Vinh tham gia thu mua, thì phần còn lại để làm hàng quan thị còn được bao nhiêu? Nay dù đã bãi chức đề đốc, nhưng các nhà tiếp dẫn đã tích tụ thói xấu, không thể trừ bỏ, phần nhiều là thế hào làm chủ, lâu năm nắm lợi. Phó sứ đường biển có khi nghiêm tra, thì thị phi nổi lên, nên khó mà gột sạch. Gần đây, giữa Chiết Giang và Phúc Kiến, Đô ngự sử Chu Hoàn (朱紈) nghiêm cấm tiếp dẫn, dẫn đến kích động sinh ra giặc Oa. Vậy thì việc ty thị bạc nên mở hay không, há chẳng cần có cái nhìn sáng suốt sao?
Năm thứ 32, quốc vương sai sứ là Khôn Tùy Ly (坤隋離) đến cống voi trắng và sản vật địa phương. Voi trắng đã chết, chỉ dâng một ngà voi dài 8 thước. Đầu ngà khảm 10 hạt thạch lựu bằng vàng, giữa khảm 10 hạt trân châu, 4 viên bảo thạch, đuôi gắn một mũi dùi kim cương. Lại có hộp vàng đựng đuôi voi trắng làm bằng chứng.
Năm thứ 37, lại cống sản vật. So với trước thì khá khác biệt. Đến nay, sứ cống vẫn không dứt.
Nước này có núi hình như đá trắng sắc nhọn, chu vi 1.000 dặm. Núi ngoài gồ ghề, núi trong sâu thẳm. Ruộng bằng và màu mỡ, lúa thóc đầy đủ, khí hậu thường nóng. Phong tục cứng cỏi, chuộng hào cường. Hay xâm lấn đất láng giềng, dùng gỗ cau làm lao, da trâu làm khiên, đầu tên tẩm thuốc, quen đánh trận thủy. Cung vua nguy nga, dân ở nhà sàn. Nhà sàn ghép kín bằng miếng cau, buộc bằng dây mây, rất chắc. Lót bằng chiếu mây, chiếu tre, nằm nghỉ bên trong.
Vua quấn vải trắng trên đầu, thắt lưng bằng vải thêu chỉ kim tuyến, cưỡi voi hoặc ngồi kiệu vai. Nam nữ búi tóc, quấn vải trắng trên đầu, mặc áo dài, thắt lưng bằng khăn tay hoa xanh. Mọi việc lớn nhỏ như bàn bạc, hình phạt, tiền của thu chi đều do phụ nữ quyết định. Ý chí và tài trí của họ vượt hơn nam giới. Nam giới thì buông thả, không có trật tự. Gặp nam nhân Trung Quốc thì rất yêu thích, nhất định mời rượu, ca hát, giữ lại qua đêm. Nam giới đeo ngọc trai, người giàu thì khảm vàng, đeo ngọc, đi lại phát ra tiếng. Khi cưới, có nhiều tăng nhân đón rước, chú rể đến nhà gái, tăng nhân lấy chỉ đỏ của cô gái dán lên trán chú rể gọi là “lợi thị”.
Phụ nữ phần nhiều là ni cô, đạo sĩ, biết tụng kinh, giữ giới, trang phục hơi giống người Trung Quốc, cũng lập am miếu. Rất coi trọng lễ tang, người chết khi tắt thở thì dùng thủy ngân để bảo quản thi thể, sau đó chọn nơi đất cao, làm lễ Phật rồi chôn. Dùng nếp để nấu rượu, nấu nước biển làm muối, dùng vỏ sò biển làm tiền, mỗi 10.000 cái tương đương 20 quan tiền Trung Thống.
Hàng hóa sử dụng gồm: đồ sứ hoa lam trắng, vải in hoa, lụa màu, đoạn màu, vàng, bạc, đồng, sắt, thủy ngân, hạt châu nung, dù che mưa và các loại tương tự.
Sản vật gồm: hương La Hộc (羅斛香, mùi rất thanh và xa, chỉ kém trầm hương), dầu đại phong tử, tô mộc (rẻ như củi), tê giác, voi, sừng tê, ngà voi, lông chim phỉ thúy, sáp vàng, thiếc hoa.
Vật cống gồm: voi, ngà voi, sừng tê, đuôi công, lông chim phỉ thúy, mai rùa, rùa sáu chân, bảo thạch, san hô, nhẫn vàng, long não phiến, long não hạt, long não vụn, dầu long não, củi long não, trầm hương, an tức hương, hoàng thục hương, giáng chân hương, hương La Hộc, nhũ hương, hương cây, mộc hương, ô hương, đinh hương, a ngùy, nước hoa hồng, vỏ đinh, ngọc hoàng thạch, cành củi, đằng huyết, đằng hoàng, lưu hoàng, một dược, ô đê nê, nhục đậu khấu, bạch đậu khấu, hồ tiêu, tất bát, tô mộc, gỗ mun, đại phong tử, vải bít bố, vải đỏ nhuộm dầu, vải trắng quấn đầu, vải đỏ Sa Ha Sát, vải đỏ nền xoắn tiết trí, vải đỏ hoa đầu Đỗ, vải trắng hoa chìm viền đỏ, vải hoa Trá Liên, vải trắng hoa chìm viền đen, vải hoa ô bàn cờ nhỏ, vải dệt hình người cưỡi voi, vải Tây Dương, vải dệt hoa tơ đỏ, vải dệt tạp tơ, vỏ chăn hoa đỏ bằng tơ cắt nhung, khăn tay tơ hoa đỏ, màn tơ hoa đỏ dệt hình người cưỡi voi.
Vị trí nước này ở cực nam Chiêm Thành (占城), đường đi từ Quảng Đông qua Chiêm Thành mất bảy ngày đêm thì đến.
Theo sách “Vũ Cống” (《禹貢》) chép: “Đảo Di mặc áo cỏ.” Chu Công nói: “Minh vương trọng đức, bốn phương Di đều đến triều cống, vật phẩm đều là y phục, đồ ăn, đồ dùng.” Bởi vì con người sống không thể trần truồng, nên nhu cầu y phục là thiết yếu hằng ngày. Vì vậy, các bậc tiên vương đặt ra chế độ cống phẩm, không quý châu ngọc mà quý vải vóc. Như các nước Di triều cống cho triều ta, như Triều Tiên cống vải gai, Hami (Cáp Mật) cống vải nỉ, Giao Chỉ cống lụa trắng, đều là vật trọng dùng để mặc.
Tuy Xiêm La (暹羅) là hải đảo dị tục, nhưng lại tinh thông nghề dệt, cống tơ có nhiều loại, vải có đến 13 loại, như vậy có thể gọi là biết trọng điều cần thiết. Nay trong thiên hạ chỉ có các quận phía đông Chiết Giang là còn chăm lo nghề tằm tang, các tỉnh khác phần nhiều không biết kéo kén. Tuy vùng Giang Hoài có nhiều bông vải, nhưng không lo dệt may, thì khác gì với phong tục siêng năng của người Xiêm đâu!
Chú thích
- ▲ Như vậy theo sách này thì Hỗn Hội và Kiều Trần Như là hai người khác nhau. Xem bài Phù Nam.
- ▲ Kaundinya hoặc Kiều Trần Như chỉ là họ tên chứ không phải cùng một người. Có lẽ tác giả Nghiêm Tòng Giản đã nhầm lẫn "Kaundinya" với các vị La Hán, trong đó Kiều Trần Như là họ của vị đệ tử xuất gia và chứng quả A-la-hán đầu tiên của đức Phật, là thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, có hạnh cao nhất.
- ▲ Thời kỳ trị vì của vua Suryavarman II (1113–1150), giai đoạn Đế quốc Khmer.
- ▲ Thời kỳ trị vì của vua Indravarman III (1295-1308) .
- ▲ Thời kỳ trị vì của vua Barom Reameathibtei (1363–1373)
- ▲ Thommasaok Reachea (1373-1393).
- ▲ Thời kỳ của vua Soriyovong, Soriyovong II, Sri Surya Varman II.
- ▲ Thời kỳ trị vì của vua Indravarman III.
- ▲ Thời kỳ của vua Soriyovong, Soriyovong II, Sri Surya Varman II.
- ▲ Thời kỳ của vua Soriyovong, Soriyovong II, Sri Surya Varman II.
- ▲ Tương ứng với thời kỳ của vua Barom Soccoroch
Nguồn bổ sung: