Cây trúc

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Cây trúc
của Lê Thánh Tông

Kì Viên[1] dưỡng dục nẻo sơ đông[2],
Dạn mặt đầu canh thuở gió rung.
Giá[3] chẳng xâm, hay tiết cứng,
Trăng những tỏ, biết lòng không[4].
Đài Vương tử[5] vắng, nhàn xoang phượng[6],
Chầm[7] Cát Pha thanh dễ hóa rồng[8].
Thiên hạ tri âm, hay[9] có mấy ?
Mai thì ngự sử, đại phu tùng[10].

   




Chú thích

  1. Kì Viên: Cây trúc (Bãi Kì Viên ở nước Vệ có nhiều trúc quý)
  2. Sơ đông: Đầu đông
  3. Giá: Lạnh
  4. Không: Trong sạch
  5. Vương tử: Vương Hi Chi nhà Tấn, ở một khu đất rộng, chỗ nào cũng trồng trúc
  6. Nhàn xoang phượng: Chơi khúc nhạc phượng (tiếng tiêu hay như phượng hót)
  7. Chầm: Đầm
  8. Hóa rồng: Phi Trường Phòng vào núi học đạo, khi trở về, sư phụ cho cái gậy bằng trúc và bảo cưỡi cái gậy này sẽ về đến nhà. Sau khi đã tới nhà, Phi Trường Phòng bỏ cái gậy ấy ở bãi Cát Pha, thì cái gậy hóa thành con rồng xanh
  9. Hay: Biết
  10. Đại phu tùng: Tần Thủy Hoàng lên núi Thái Sơn làm lễ phong thiên, nhờ ôm được cây thông, mới tránh khỏi cơn mưa to gió lớn, nhân đấy phong cho thông chức "ngũ đại phu"