Ca trù thể cách/9

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

THAO THỮ HỊCH

1Tượng mắng: Lẽ trời sanh vật, vật ấy nhiều loài.
2Lấy câu thuận tánh làm lành, thấy chữ nghịch thường mà ngán.
Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần.
3Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.
Kìa như nha báo tai, thước báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin;
4Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc.
Lò tạo hóa nhúm nhen khắp vật, vật nào hay khuấy rối sự nhà;
5Thợ hóa công đúc nắn nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước.

Nay có con chuột:

6Lông mọc xồm xàm, tục kêu xù lắc;
7Tánh hay ăn vặt, lòng chẳng kiêng dè.
Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề,
8Đường qua lại đào ra hai ngách.
Nghe hơi động vội vàng chạy mất, trốn xuôi trốn ngược, nhát quá mẹ cheo;
9Chờ đêm khuya sẻ lén túc nhau, bò dọc bò ngang, liên hơn cha khỉ,

Gọi danh hiệu chuột xạ, chuột lắc. chuột xủ, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên;
10Tra quán chỉ ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu bạn non sông lắm lối.
Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu;
11Vắn dài râu mọc hai chia, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc.
Vã sáu mươi giáp huê đứng trước, lẽ thì thiện tánh linh tâm;
12Thì mười hai chi tuế ở đầu, cũng đáng cư nhơn do ngãi.
Cớ sao lại đam lòng quỉ quái.
13Cớ sao còn làm thói gian tham:
Túi Đông-pha thường bữa tha gừng,
14Ruộng Nam-quách ghe phen cắn lúa.
Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang,
15Nệm mền cùa chúng che thân, cắn nát hết lại tha vào lỗ.
Hoặc nằm ngữa cắn duôi tha trấng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan;
16Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo. để án con đòi mang tiếng khổ.
Vậy cũng gọi mình hay ngũ kị,
17Vậy cũng khoe ngôi trước tam tài.
Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu,
18Lại quen thói lần mò bên vách.
Sách Lỗ-sử biên câu thực giác, vì miệng ai cho nên vua lỗi đạo thờ trời;
19Thơ Quấc-phong đề chữ thực miêu, vì miệng ai cho nên dân xa làng bỏ đất.
Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau;
20Nhiều chỗ than vách gã thềm xiêu, vì miệng ai cho nên cha con dức bản.
Nền xã tắc là nơi báo hổ, can chi mi đào lỗ đào hang,
81Chốn miếu đường là chỗ thanh tân, cớ chi người cắn màng cắn sáo.
Kẻ trinh nữ ghét thằng cường bạo, cũng còn mang cái tiếng thữ dâm,
22Án long đồ tra đứa gian tà, hãy còn mắc cái câu thử thủ.
Gối ngỏa chú Nghiêu phu đà đến bể, khen cho quỉ quái chẳng chừa,
23Gậy phi long Linh kiết đã tưng bừng, sao hẫy yêu tinh không gớm.

Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thiệt tướng gian,
24Diễn cầm bốn bảy vì sao, phải biết hư nhựt là sao dữ.
Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử, cục cứt ra cũng nhọn hai đầu,
25Báu xót chi manh áo thữ cầu, tấm da lột không dầy ba tấc.
Tuy là tướng hữu bì hữu chất,
26Thật là loài vô lễ vô nghi.
Luận tội kia đã đáng phân thi,
27Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật.
Giận là giận trộm đầu bàn phật, trốn án mà xưng vương.
28Căm là căm cắn sách kẻ nhu, đành lòng mà phá đạo.
Ngao ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào Ô-thước phanh phui.
29Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Huỳnh-hà ráo cạn.
Ví có ngàn dòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm,
30Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.
Tội đường ấy đã nên ác quá,
31Ta tới đây há dể nhiêu dung.
An tiên phong nấy gã rắn rồng,
32Phù hậu tập sai chim bà cắc.
33Sắm sửa binh sương giáp sắt, trau giồi ngựa gió xe trăng.
34Gióng trống sấm xuất binh, phất cờ sao lập trận.
Đuốc Điền-đơn sắm sẵn, để phòng khi un đốt ngách u vi,
35Đèn Lý-bạch đái tùy, đặng chờ thuở xét soi hang uất khúc.
Các các chỉnh tề sĩ tốt, nghe lịnh thân theo tướng quân mèo,
36Hàng hàng bố liệt thương đao, nhập sào huyệt phá hồ lổ chuột.
Phải nghe ta dặn: sắm sửa đủ đồ:
Cuốc xuổng đào hang,
38Phảng mai chận ngách,
trả, trách, nồi, niêu rửa sạch, thượng kỳ phù địch khái chi tâm,
39Tiêu, hành, sả, ớt, muối đâm, thứ dĩ tạ chúng nhơn chi khẩu.
Chở đẻ con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành,
40Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.
Bốn phương đều ngợi chữ thăng bình,
41Thiên hạ cũng vui câu án đổ.