Chí Phèo

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Chí Phèo  (1941) 
của Nam Cao

là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn Nam Cao. Phát hành đầu tiên năm 1941 trong tạp chí Đời Mới, cho thấy tài năng của Nam Cao và thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc.

Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi giời. Có hề gì? giời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ-đại. Nhưng cả làng Vũ-đại, ai cũng tự nhủ: « Chắc nó trừ mình ra! » Không ai lên tiếng cả. Tức thật! tức thật! ồ! thế này thì tức thật! tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông-nỗi này? A hà! phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra thằng Chí-Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí-Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí-Phèo? Có mà giời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ-đại cũng không ai biết...

Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần-truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên một cái lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù. Người đàn bà góa mù này bán hắn cho một bác phó cối không con, và khi bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lý Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến, ăn tiên-chỉ làng. Hình như có mấy lần bà ba nhà ông lý, — còn trẻ lắm mà lại cứ hay ốm lửng — bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy. Người ta bảo ông lý ra đình thì hách dịch, cả làng phải sợ, mà về nhà thì lại sợ cái bà ba còn trẻ này. Người bà ấy phốp pháp, má bà ấy hây hây, mà ông lý thì lại hay đau lưng lắm; những người có bệnh đau lưng hay sợ vợ mà chúa đời là khỏe ghen. Có người bảo ông lý ghen với anh canh-điền khỏe mạnh mà sợ bà ba không dám nói. Có người thì lại bảo anh canh-điền ấy được bà ba — quyền thu quyền bổ trong nhà — tin cẩn nên lấy trộm tiền trộm thóc nhiều. Mỗi người nói một cách. chẳng biết đâu mà lần, chỉ biết có một hôm Chí bị người ta giải huyện rồi nghe đâu phải đi ở tù. Không biết tù mấy năm, nhưng hắn biệt tăm đến bẩy, tám năm. Rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về. Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng-cá! cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rắn cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh ra, đầy những nét chàm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!

Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy bộ-điệu hung-hăng của hắn, bà cả dừa bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng kết cục chẳng bà nào dám ra nói với hắn một vài lời phải chẳng. Mắc cái phải cái thằng liều-lĩnh quá, nó lại say rượu, tay nó lại nhăm nhăm cầm cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt, rồi mặc thây cha nó, nó có chửi thì tai liền miệng đấy, chửi rồi lại nghe! Thành thử chỉ có ba con chó ra giày điều. Ba con chó dữ với một thằng say rượu!... thật là ầm ỹ! Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới chỉ được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ họ mới được nghe người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! mới ngoa-ngoắt làm sao! Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa! mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất! Cũng có người hiền-lành hơn thì bảo: « Phúc đời nhà nó, chắc ông lý không có nhà... » Ông lý đây là ông lý Cường, con giai cụ bá, nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm như rác. Phải, ông lý Cường thử có nhà xem nào! Quả nhiên, họ nói có sai đâu! Đấy, có tiếng người nói sang sảng quát: « Mày muốn lôi thôi gì? Cái thằng không cha không mẹ này! Mày muốn lôi thôi cái gì?... » Đã bảo mà! cái tiếng quát tháo kia là tiếng lý Cường. Lý Cường đã về! lý Cường đã về! phải biết... a ha!.. Một cái tát rất kêu. Ồ! cái gì thế này?.. Tiếng đấm, tiếng đá nhau bình bịch. Thôi, cứ gọi là tan xương!.. Bỗng « choang » một cái: thôi, phải rồi, hắn đập cái chai vào cột cổng... Ồ hắn kêu! hắn vừa chửi vừa kêu làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu!

— Ối làng nước ôi! cứu tôi với... Ối làng nước ôi! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi! Thằng lý Cường nó đâm chết tôi rồi, làng nước ôi!...

Và họ thấy Chí-phèo lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào mặt. Máu ra loe loét trông gớm quá! Mấy con chó xông xáo quanh hắn, xủa rất hăng. Lý Cường hơi tái mặt, đứng nhìn và cười nhạt, cười khinh bỉ. Hừ! ngỡ là gì, chẳng hóa ra nằm vạ! thì ra hắn định đến đây nằm vạ.

Người ta tuốn đến xem. Mấy cái ngõ tối xung quanh đùn ra biết bao nhiêu là người! Thật ồn ào như chợ. Bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá, vững dạ vì có anh Lý, cũng xưng xỉa ra chửi góp. Thật ra, các bà muốn xem Chí-Phèo làm ra sao; không khéo nó cố ý gieo vạ cho cụ ông phen này...

Nhưng kìa cụ ông đã về. Cụ cất tiếng rất sang hỏi: « Cái gì mà đông thế này? » Chỗ này « lạy cụ, » chỗ kia « lậy cụ », người ta kính cẩn đứng giãn ra, và Chí-Phèo bỗng nằm dài, không nhúc nhích, rên khe khẽ như gần chết.

Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh-tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý-trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:

— Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?

Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:

— Cả các ông, các bà nữa; về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại đông thế này?

Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ Bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi; ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ lại triệu mình đi làm chứng! Sau còn trơ lại Chí-Phèo và cha con cụ Bá. Bấy giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:

— Anh Chí ơi! sao anh lại làm ra thế?

Chí-Phèo lim rim mắt, rên lên:

— Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù nữa chưa biết chừng.

Cụ Bá cười nhạt, nhưng tiếng cười ròn-rã lắm — người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười:

— Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngóe đâu? Lại say rồi phải không?

Rồi đổi giọng, cụ thân-mật hỏi:

— Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.

Thấy Chí-Phèo không nhúc-nhích, cụ tiếp luôn:

— Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói chuyện tử-tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.

Rồi vừa xốc Chí-Phèo, cụ vừa phàn-nàn:

— Khổ quá! giá có tôi ở nhà thì có đâu nên nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.

Chí-Phèo chả biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ Bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, quát:

— Lý Cường đâu! tội mày đáng chết. Không bảo người nhà đun nước, mau lên!

Cụ giắt Chí-Phèo đứng dậy, giục thêm vài tiếng nữa, và Chí Phèo chịu đi; hắn chỉ cố khập-khiễng cái chân như bị què. Là vì lúc ấy trong người hắn rượu đã hơi nhạt rồi. Không còn kêu gào chửi bới; và không còn nghe kêu gào chửi bới, hắn thấy hình như không hăng-hái nữa. Sự ngọt-ngào làm mềm nhũn. Vả lại, những người đứng xem về cả rồi, hắn thấy hắn hình như trơ trọi. Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy. — cái sợ xa xôi của ngày xưa, — hắn thấy hắn quả là táo bạo. Không táo bạo mà dám gây sự với cha con bá Kiến, bốn đời làm tổng lý. Và nghĩ thế, hắn thấy hắn cũng oai. Hắn là cái ông gì ở làng này? không vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em không có, đến bố mẹ cũng không... Ờ, thế mà dám độc lực chọi nhau với lý-trưởng, chánh-tổng, bá-hộ, tiên-chỉ làng Vũ-đại, chánh hội đồng kỳ-hào, huyện hào, Bắc-kỳ nhân dân đại-biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Thử hỏi đã có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn xuất đinh này làm được thế? Kể làm rồi có chết cũng là cam tâm. Vậy mà không: cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn mời hắn vào xơi nước. Thôi cũng hả, đã xử nhũn thì hắn vào. Nhưng bỗng hắn lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lão cáo già này chả lại lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ờ mà thật, có thể như thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng đồ bạc ra khoác và cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn vào, trần cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cướp thì làm sao? Cái thằng bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớn cái nước gì mà chịu lép như trấu thế? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nào. Nhưng nghĩ ngợi một tý, hắn lại bảo: kêu cũng không nước gì! Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu người đã ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại bây giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào!... Vào thì vào, cần quái gì! Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có rở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là thường. Thôi cứ vào...

Vào rồi, hắn mới biết những cái hắn sợ là hão cả. Bá Kiến quả có ý muốn giàn xếp cùng hắn thật. Không phải cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời. Thứ nhất sợ kẻ anh-hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí-Phèo không anh-hùng, nhưng nó là cái thằng liều-lĩnh. Liều-lĩnh thì ai còn thèm chấp! Thế nào là mềm nắn, rắn buông? Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì cũng đè đầu ấn cổ thì lại bán nhà đi cho sớm. Cụ vẫn bảo lý Cường như thế đấy. Vũ-dũng như hắn mà làm được lý-trưởng là nhờ có cụ. Cụ mà chết đi rồi, « chúng nó » lại không cho ăn bùn.

Tiếng vậy, làm tổng lý không phải là việc dễ. Ở cái làng này, dân quá hai nghìn, xa phủ, xa tỉnh, kể ăn thì cũng dễ ăn nhưng không phải hễ làm được lý-trưởng thì cứ việc ngồi mà khoét Hồi năm nọ, một thầy địa-lý qua đây có bảo đất làng này vào cái thế « quần ngư tranh thực », vì thế mà bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bẩy bối, bè nào cũng muốn ăn; ngoài mặt thì tử-tế với nhau, nhưng thật ra trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ. Ngay cái thằng Chí-Phèo này đến đây sinh sự biết đâu lại không có thằng nào ẩy đấy? Nếu cụ không chịu nhịn, làm cho to chuyện, có khi tốn tiền: cái nghề quan, bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu? Bỏ tù nó thì dễ rồi; nhưng bỏ tù nó, cũng có ngày nó được ra; liệu lúc ấy nó có để yên mình không chứ? Cụ phải cái vụ thằng năm Thọ. mãi đến giờ chưa quên.

Năm Thọ vốn là một thằng đầu bò đầu bướu. Hồi ấy, bá Kiến mới ra làm lý-trưởng, nó hình như kình nhau với hắn ra mặt; lý Kiến muốn trị nhưng chưa có dịp. Được ít lâu, hắn can dự vào một vụ cướp, bị bắt giam; lý Kiến ngấm-ngầm vận-động cho vào tù. Vẫn tưởng một người vai vế như Năm Thọ mà thất cơ lỡ vận đến nỗi tội tù thì làm gì còn dám vác cái mặt mo về làng? Lý Kiến mừng thầm rằng đã nhổ được cái đinh trước mắt. Nào ngờ một buổi tối, lý Kiến đang ngồi một mình soạn giấy má thì năm Thọ vác giao xộc vào. Nó đứng chặn lấy cửa và bảo: nếu kêu một tiếng thì đâm chết liền. Thì ra nó vượt ngục và về đây nhờ ông lý một cái thẻ mang tên một người lương-thiện và một trăm đồng bạc để trốn đi. Nó lại bảo: nghe nó thì nó đi biệt, mà không nghe thì nó đâm chết, rồi muốn ra sao thì ra; còn muốn sống với vợ với con thì nghe nó.

Lẽ tất nhiên là lý Kiến nghe. Năm Thọ đi phen ấy là mất tăm, cũng không bao giờ về nữa thật. Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn? Năm Thọ vừa đi, lại có binh Chức ở đâu lần về. Mà thằng này lúc còn ở nhà, nào có ngạo ngược gì cho cam. Người ta đã phải gọi hắn là cục đất. Ai bảo làm sao thì ư hừ làm vậy, mới quát một tiếng đã đái cả ra quần, thuế bổ một đồng thì đóng quá hai, đến nỗi có con vợ hay hay mắt, bị người ta ghẹo cũng chỉ im ỉm rồi về nhà hành vợ chứ chẳng dám ho he gì. Thế đấy: cái nghề đời hiền quá hóa ngu; ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã nhịn thì chúng ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được. Hắn làm thì làm cật lực mà quanh năm nghèo rớt mồng tơi; chỉ vì có một miếng cũng không giữ được mà ăn: đứa nào nó vớ được nó cũng xoay, mà đứa nào xoay cũng chịu. Sau cùng, bực quá, hắn ra đi lính. Lại càng thêm tội! Không bực còn được vợ, tuy rằng thỉnh thoảng có bị sây sớt ra ngoài, nhưng vẫn là vợ mình. Bực thì hóa ra mất vợ. Bởi vì chị vợ ở nhà còn trẻ, mới hai con, cái mắt sắc như dao lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên lại sinh ra vắng chồng, của ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà nhịn được?

Nhà chị binh ở gần đường. Ông phó đi đánh bạc đêm về cũng tạt vào; anh trương tuần đi tuần cũng tạt vào; anh hàng xóm cũng mò sang; thậm chí đến cái thằng hương Điển, đầu hai thứ tóc, già đời làm đầy tớ cho các ông lý trưởng, cũng mon men vào gạ-gẫm. Vợ binh Chức đã nghiễm-nhiên thành một con nhà thổ không phải trả tiền để bọn lý-dịch nho nhỏ trong làng chuyên đổi. Chính ngay lý Kiến, tuy hồi ấy đã có đến ba vợ, cũng không nỡ bỏ hoài cái của không dưng được giời cho; và không bỏ hoài, ông còn được lợi. Mỗi lần chị binh đi lĩnh lương hay lĩnh măng-đa của chồng, phải mượn ông lý đi nhận-thực. Không ông lý nào vác của nhà đi ăn mà nhận-thực cho người ta, điều ấy đã cố nhiên. Nhưng với lý Kiến, thì không những cơm rượu tiền túi, còn phải cho ngồi xe chung và còn ở lại tỉnh nữa.

Thế là mấy đồng bạc lương đi đời; mấy đứa con của chị ngày mai chỉ được mấy cái kẹo đạn mút, hay hậu hĩnh ra thì được mấy cặp bánh giầy giò ăn. Thành thử công lao anh binh, rút lại chỉ giúp cho chị binh mỗi tháng một lần hưởng những cuộc vui với ông lý nhà.

Chẳng hiểu anh ta cũng biết thế mà chán cảnh nhà hay sao mà mãn hạn ba năm cũng không thấy về Rồi ít lâu sau, có trát về làng bắt tróc-nã và áp giải tên Trần-văn-Chức. Lý Kiến khai tên ấy thuộc hạng dân lưu-tán không về làng. Nhưng khai hôm trước thì hôm sau hắn về. Lý Kiến sai đầy tớ đem trát đến nhà đòi hắn. Hắn đến ngay, nhưng lại dẫn theo cả vợ và hai con. Không đợi ông lý nói một câu, hắn rút một con dao chọc tiết lợn ra, nhăm nhăm cầm ở tay mà bảo rằng: « Chẳng nói giấu gì ông, tôi can án giết người. Nếu ông không thương, mà bắt giải thì vợ con tôi chết đói. Thôi thì đằng nào chúng nó cũng chết, tôi đâm chúng nó chết ở đây, rồi ông bắt đi ở tù luôn thể ». Mắt hắn đỏ ngầu; lưỡi dao hắn hoa lên loang loáng, chỉ trông cũng lạnh gáy. Hắn có thể giết người được lắm, mà chắc không phải chỉ giết có vợ và con thôi: Khi hắn đã có gan đâm chết vợ con thì hắn còn kiêng gì cái cổ của người khác nữa? Lý Kiến nghĩ ngợi một lúc rồi bảo hắn cứ về rồi ông liệu. Ông liệu nghĩa là ông che đậy cái án của hắn cho không ai biết và mỗi lần có trát về nhắc, ông lại khai rằng: vẫn chưa có tên Chức về. Thế là hắn cứ nghiễm-nhiên sống ở ngay chính quê hương hắn. Va bây giờ người ta thấy vợ hắn rất chính chuyên mà lại trung thành: thị chăm chỉ làm để mà nuôi hắn; những ông trưởng, ông phó tự nhiên nghĩ bụng rằng: người ta có chồng rồi mà còn chàng-màng thì phải tội; ai cũng sinh tử-tế cả chỉ trừ anh binh, bởi vì Chức bây giờ lại rất mực là ngang-ngược. Hắn ăn vườn đấy, nhưng chẳng nộp thuế cho ai. Thúc hắn thì hắn chửi, cắm vườn hắn thì hắn chém, sinh chuyện với hắn thì chính lý trưởng làng có lỗi bởi cố ý ẩn-lậu hắn là một tên can phạm. Ấy thế mà hắn cũng chưa vừa lòng đâu. Một hôm không biết nghĩ ngợi thế nào, hắn vác dao đến bảo thẳng vào mặt lý Kiến rằng:

— Hồi tôi còn tại ngũ, tôi gửi về nhà có trăm. Không biết vợ tôi nó tiêu pha gì, hay là cho giai mà không còn một đồng nào cả. Tôi hỏi nó thì nó bảo: ở nhà, đàn bà con gai có một mình, không dám giữ tiền, được đồng nào mang gửi ông lý cả. Tôi sợ nó bịa ra nên đã trói sẵn nó ở nhà. Bây giờ tôi đến thưa với ông, ông tính toán xem được bao nhiêu cho đem về nuôi cháu. Thiếu một đồng thì tôi không để yên chúng nó. Lý Kiến hiểu rằng: « chúng nó » đây có thể gồm cả ông. Ông cười nhạt bảo rằng:

— Thế này này, anh binh ạ: chị ấy gửi tiền tôi thì quả là không có.

Hắn trợn mắt lên quát:

— Thế thì thằng nào ăn đi?

Lý Kiến vội nói lấp ngay:

— Thế nhưng mà anh có thiếu tiêu thì cứ bảo tôi một tiếng. Chị ấy trót tiêu đi rồi thì có giết cũng chẳng ra. Lôi thôi làm gì cho sinh tội?

Ông mở tráp quăng cho hắn năm đồng bạc. Hắn cầm lấy, « lậy ông » tử tế, rồi sách dao ra về. Từ hôm ấy, hắn thành tử-tế với lý Kiến, nhận là chỗ đầy tớ chân tay, nhưng lý Kiến thỉnh-thoảng vẫn phải cho hắn tiền. Cho mãi đến năm ngoái đây, hắn chết...

Thì năm nay lại nẩy ra Chí-Phèo. Lại một thằng hiền-lành như đất — tội nghiệp cho hắn, có lần lý Kiến thấy hắn vừa bóp đùi cho bà ba, vừa run run! — bỗng nhiên vùng dậy, rở toàn những giọng uống máu người không tanh. Thì ra già néo đứt giây. Cụ tiên-chỉ làng Vũ-đại nhận ra rằng: đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ làng mà đi là dại. Mười thằng đã đi ra, thì chín thằng giở về với cái vẻ hung-đồ, cái tính ương-ngạnh học được từ phương xa. Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại giắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vất trả lại năm hào « vì thương anh túng quá! » Và cũng phải tùy mặt nữa: những thằng có máu mặt, vợ đẹp, con đàn, chính là những thằng sợ quan và dễ bóp; trái lại, những thằng tứ cố vô thân, giết chúng nó thì dễ, nhưng giết được, chỉ còn có xương; mà gây với chúng là mở một dịp tốt để các phe nghịch xoay lại mình. Làng nào cũng có nhiều cánh, mỗi cánh kết bè đảng chung quanh một người: cánh cụ bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông tư Đạm, cánh ông bát Tùng... Bằng ấy cánh giu lại với nhau để bóc lột con em, nhưng vẫn ngấm-ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau... Cụ lại nhận ra rằng: ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền-lành chỉ è cổ làm nuôi bọn kỳ-hào, — nhưng chính bọn kỳ-hào nhiều khi lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng, — nên liều-lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình. Nhưng cụ không phải là một người ưa than thở. Than thở chẳng ích gì cho ai. Cái bọn dân đinh suốt đời bị đè nén kia, sở dĩ bị đè nén suốt đời, chỉ vì khi bị đè nén chúng chỉ biết than-thở chứ không biết làm gì khác. Cụ bá Kiến không cần than thở: trị không lợi thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng đầu bò chứ? không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? Thế lực của cụ sở dĩ lấn áp được các vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi cụ biết mềm biết cứng, biết thu-dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi ở tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến, chỉ cho nó dăm hào uống rượu, là có thể sai nó đến tác hại bất cứ anh nào không nghe mình. Gặp người bướng-bỉnh, đanh thép thì nó lừa đốt nhà hay cho mấy nhát dao; gặp người non mặt, thì nó quăng vào chai rượu lậu, hay là gây sự rồi lăn ra kêu làng. Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn, nếu không thì giữa đám dân hiền-lành và yên-phận này, khéo lắm chỉ bóp nặn được vào vụ thuế Thuế một năm có một lần, nếu chỉ trông vào đấy thì bán mả cha đi cũng không đủ để bù vào chỗ ba, bốn nghìn bạc chạy chọt để tranh triện đồng... Vì thế, đêm hôm ấy, ở nhà bá Kiến ra về, Chí-Phèo vô cùng hể hả! Bá Kiến đã không vu vạ gì cho hắn, lại còn giết gà mua rượu cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc. Đồng bạc, làm gì đến thế? hắn loạng choạng vừa đi vừa cười: hắn chẳng cần đến ba xu. Lúc ngồi tù, hắn có học mót được mấy bài thuốc giấu: chỉ vài nắm lá, là mặt hắn lại đâu vào đấy ngay. Còn đồng bạc lại để đi uống rượu...

Hắn uống được có vừa ba hom. Đến hôm thứ tư thì hắn trợn mắt lên, bảo con mẹ hàng rượu rằng:

— Hôm nay ông không còn tiền; nhà mày bán chịu cho ông một chai. Tối ông mang tiền đến giả.

Mụ hàng rượu hơi ngần ngừ. Thế là hắn rút bao diêm, đánh cái xoè, châm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu la om xòm, vội giập tắt được ngọn lửa vừa mới cháy. Rồi khóc khóc mếu mếu, mụ đưa ra chai rượu. Hắn hầm hầm, chỉ vào mặt mụ bảo rằng:

— Cái giống nhà mày không ưa nhẹ! Ông mua chứ ông có xin nhà mày đâu! Mày tưởng ông quịt hở? Mày thử hỏi cả làng xem ông có quịt của đứa nào bao giờ không? Ông không thiếu tiền! ông còn gửi đằng cụ bá, chiều nay ông đi lấy về ông giả.

Mụ vừa kéo vạt áo lên quệt mũi, vừa bảo:

— Chúng cháu không dám chắc lép nhưng quả là ít vốn:

Hắn quát lên:

— Ít vốn thì chỉ tối nay ông giả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?

Rồi hắn xách chai ra về. Hắn về cái miếu con ở bờ sông, vì vốn từ trước đến nay không có nhà. Lúc đi đường, hắn đã vặn được ở vườn nhà nào ba, bốn quả chuối xanh, và bốc của một cô hàng xén một rúm con muối trắng. Bây giờ hắn uống rượu với chuối xanh chấm muối trắng và thấy rằng cũng ngon. Hắn uống rượu với cái gì cũng ngon.

Ụống xong, hắn chùi miệng, rồi ngật ngà ngật ngưỡng đến nhà bá Kiến. Gặp ai hắn cũng bảo: hắn đến nhà cụ Bá đòi nợ đây! Mới trông thấy hắn vào đến sân, Bá Kiến đã biết hắn lại định đến sinh sự rồi. Cái mắt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại thì run bần bật. Cũng may, hắn không cầm vỏ chai. Bá Kiến giõng giạc hỏi:

— Anh Chí đi đâu đấy?

Hắn chào to:

— Lạy cụ ạ. Bẩm cụ... con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ. Giọng hắn lè nhè và tiếng đã gần như méo mó. Nhưng bộ điệu thì lại như hiền lành: hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải nhải:

— Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù. Bẩm có thế, con có dám nói gian thì giời chu đất diệt, bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở tù còn cơm để mà ăn, bây giờ về làng, về nước, một thước cắm giùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù...

Cụ Bá quát — bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử giây thần kinh của người —

— Anh này lại say khướt rồi!

Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, dơ cái tay lên nửa chừng:

— Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho đi ở tù, mà nếu không được thì... thì... thưa cụ...

Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn dơ ra: đó là một con dao nhỏ, nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp:

— Vâng bẩm cụ, nếu không được thì con phải đâm chết dăm, ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện.

Rồi hắn cúi xuống, tẩn mẩn gọt cạnh cái bàn lim. Cụ Bá cười khanh khách — cụ vẫn tự phụ hơn đời có cái cười Tào-Tháo ấy — Cụ đứng lên, vỗ vai hắn mà bảo rằng:

— Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm người cũng không khó gì. Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi, đòi được thì tự nhiên có vườn.

Đội Tảo là một tay vai vế trong làng. Vây cánh ông ta mạnh, vẫn kình nhau với cánh nhà cụ Bá mà cụ Bá thường vẫn phải chịu bởi hắn là cựu binh, lương hưu-trí nhiều, quen thuộc nhiều, lại ăn nói giỏi. Hắn vay cụ Bá năm mươi đồng đã từ lâu, bây giờ đột nhiên dở mặt vỗ tuột, lấy cớ rằng số tiền ấy tính vào món tiền trè lý Cường ra làm lý-trưởng chưa tạ hắn. Cụ Bá tức như chọc họng, nhưng chưa biết làm thế nào, bởi vì thằng binh Chức, đầy tớ chân tay của cụ, khả dĩ đương đầu với hắn được, chết năm ngoái rồi. Bây giờ cụ mới lại gặp được Chí-Phèo, có thể thay cho binh Chức được. Cụ thử nói khích nó xem sao. Nếu nó trị được đội Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị đội Tảo trị thì cụ cũng không thiệt gì; đằng nào cũng lợi cho cụ cả.

Chí-Phèo nhận đi ngay! Hắn tức khắc đến nhà đội Tảo, và cất tiếng chửi ngay từ đầu ngõ. Giá có phải hôm khác, thì có án mạng rồi: Đội Tảo cũng có thể đâm chém được chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh. Nhưng phúc đời cho hắn, hay là cho Chí-Phèo, hôm ấy hắn ốm liệt giường, không sao nhắc mình giậy được. Có lẽ hắn cũng không biết Chí-Phèo chửi hắn. Vợ hắn, thấy Chí-Phèo thở ra mùi rượu, và biết rõ đầu đuôi món nợ, lấy năm mươi đồng giấu chồng đưa cho người nhà đi theo Chí-Phèo. Đàn-bà vốn chuộng hòa-bình; họ muốn yên chuyện thì thôi, gai ngạnh làm gì cho sinh sự. Vả lại, bà đội cũng nghĩ rằng: chồng mình đang ốm... chồng mình có nợ người ta hẳn hoi... và năm chục đồng bạc đối với nhà mình là mấy; lôi thôi lại chả tốn đến ba lần năm chục đồng!

Vì thế, Chí-Phèo mới được vênh vênh ra về; hắn thấy hắn oai thêm bực nữa. Hắn tự đắc: « anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta! » Cụ Bá thấy mình thắng bên địch mà không cần đến hội-đồng làm biên-bản xem chừng thích trí. Cụ đưa cho anh đầy-tớ chân tay mới luôn năm đồng:

— Anh Chí ạ, cả năm chục này phần anh. Nhưng nếu anh lấy cả thì chỉ ba hôm là tan mất; vậy anh cầm lấy chỗ này uống rượu, còn để tôi bán cho anh mảnh vườn; không có vườn có đất thì làm ăn gì?

Chí-Phèo « vâng dạ » ra về. Mấy hôm sau, cụ lý bảo lý Cường cho hắn năm sào vườn ở bãi sông cắm thuế của một người làng hôm nọ. Chí-Phèo bỗng thành ra có nhà. Hồi ấy hắn mới đâu hăm bẩy hay hăm tám...

Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba-mươi-tám hay ba-mươi-chín? Bốn-mươi hay là ngoài bốn-mươi? Cái mặt hắn không trẻ mà cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt một con vật lạ, — nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi? — Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm mầu gio; nó vằn giọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo, vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng. Bao nhiêu lần, — hắn nhớ làm sao nổi? — bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy là chính cuộc đời của hắn, cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi. Bởi vì ngay đến cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có, trong sổ làng người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu-tán, lâu năm không về làng. Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai-mươi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hăm nhăm, — không biết có đúng không? — rồi từ đấy thì đối với hắn không còn ngày tháng nữa. Bởi vì từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh-táo để nhớ rằng có hắn ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỉ dữ của làng Vũ-đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh-phúc, làm chẩy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương-thiện. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn, và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.

Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì cái gì, hắn cũng chửi; cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi như những người... say rượu hát. Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Khổ cho hắn, và khổ cho người, hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi, cũng như chiều nay hắn chửi...

Hắn chửi giời và hắn chửi đời. Hắn chửi cả làng Vũ-đại. Hắn chửi tất cả những đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng mặc, ai mà hoài hơi. Tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn. Lại càng không ai cần! Và hắn lấy thế làm ức lắm: bởi vì người ta không thể chửi nhau một mình; chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì! Thế là hắn chắc chắn đã có một cớ để mà tức tối, một cớ rất chính đáng để hắn có thể hùng hổ đi báo thù. Phải, hắn phải đi báo thù, báo thù vào bất cứ ai. Hắn phải vào một nhà nào mới được, bất cứ nhà nào. Hắn sẽ rẽ vào bất cứ cái ngõ nào hắn gặp để đập phá, đốt nhà, hay lăn ra mà kêu làng nước. Phải đấy, hắn sẽ rẽ vào bất cứ cái ngõ nào hắn gặp... À, đây kia rồi, mau mau...

Nhưng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành vạnh. Và ánh trăng chẩy trên đường trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại? Nó xệch-xạc về bên phải, nó xệch-xạc về bên trái, thu gọn vào rồi lại giải loang ra, xé rách ra vài chỗ. Nó cứ quấn-quít dưới chân Chí-Phèo. Chí-Phèo đứng lại và nhìn nó, và hắn bỗng nghiêng-ngả cười. Hắn cười ngặt-nghẽo, cười rũ-rượi. Giá hắn cứ chửi lại còn dễ nghe! Cái vật xệch-xạc trên đường là bóng hắn. Thế là hắn cười, và hắn quên báo thù: hắn đi qua cái ngõ đầu tiên kia rồi. Bây giờ thì đến ngõ nhà tự Lãng, một anh thầy cúng có một bộ râu lờ phờ. Chí-Phèo bỗng nẩy ra một ý: tạt vào đây và đập cái đàn chầu văn của lão tự nửa mùa này ra. Bởi vì lão tự này vừa làm thầy cúng lại vừa làm nghề hoạn lợn. Cái đàn của lão lừng-phừng, nghe còn chối tai hơn là lợn kêu. Nhưng lúc vào thì lão tự lại đang uống rượu; lão uống rượu ngay ở sân, vừa uống vừa vuốt râu, vừa rung rung cái đầu. Chí-Phèo đứng lại nhìn, thấy lão cũng hay hay. Hắn thấy tất cả những người uống rượu đều hay hay. Rồi đột nhiên hắn khát, trời ôi! sao mà khát! khát đến như cháy họng... Không do dự, hắn lại bên lão tự, nhắc lấy chai rượu, ngửa cổ, giốc vào mồm, tu. Lão tự duôi cái cổ gà vặt lông ra, trố mắt lên, nhưng không nói gì. Lưỡi lão díu lại rồi, còn nói làm sao được? Lão đã uống hết hai phần chai. Còn một phần thì Chí-Phèo tu nốt. Hắn tu có một hơi, rồi khà một cái, chép chép cái miệng như còn thèm. Rồi hắn nắm lấy mấy cái râu lờ phờ của lão tự, nâng soi lên trăng mà cười. Lão tự cũng cười. Hai thằng say rượu ngả vào nhau mà cười, như một đôi tri-kỷ cuồng. Rồi tự Lãng vào nhà xách hai chai rượu nữa ra; lão còn đúng hai chai nữa. Lão mời Chí-Phèo uống nữa, uống thật say, không cần gì. Cứ việc uống đừng có lo ngại gì đấy! Vợ lão chết đến bẩy tám năm nay rồi, con gái lão chửa hoang bỏ lão đi, lão chỉ có một mình, không còn vợ con nào mè nheo cả Lão muốn uống đến bao giờ thì uống. Cứ uống! cứ uống! cứ uống đi! ông bạn lạc đường ở cung trăng xuống ạ! Uống thật tợn, uống đến đái ra rượu thì mới thích. Nhịn uống để làm gì? có giầu có sang, có làm nên ông cả bà nhớn nữa, chết cũng không ai gọi là « cụ lớn mả »! Lão sống có đến hơn năm mươi năm rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào sốt! Chỉ có cái mả, cái mả tất. Ai chết cũng thành cái mả, say-sưa chết cũng thành cái mả, lo gì? cứ say!

Chưa bao giờ Chí-Phèo được thỏa-thuê đến thế! Hắn lấy làm lạ sao mãi đến hôm nay mới ngồi uống rượu với thằng cha Tự này. Chúng uống với nhau rất là lâu và rất là nhiều. Người ta tưởng như cả làng Vũ-Đại phải nhịn uống để đủ rượu cho chúng uống.

Đến lúc hết cả hai chai thì tự Lãng đã bò ra sân. Lão bò như cua và hỏi Chí Phèo rằng: « người ta đứng lên bằng cái gì? » Chí-Phèo vần ngửa lão ra, vuốt cái râu lờ phờ của lão mấy cái, rồi để mặc lão thế, hắn lảo đảo ra về. Hắn vừa đi vừa phanh ngực ra mà gãi. Hắn gãi ngực, rồi gãi lên cổ, gãi mang tai và gãi lên cả đầu. Có lúc hắn phải đứng lại giữa đường mà gãi, ghệch chân lên mà gãi. Hắn bứt-rứt quá, ngứa-ngáy quá và chợt nghĩ đến cái bờ sông gần nhà. Bởi vì cái vườn của hắn ở gần một con sông con, nước lặng và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn. Duy có vườn nhà hắn trồng toàn chuối, ở một góc vườn có túp lều con. Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn bằng-phẳng ngổn-ngang những bóng chuối đen đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi. Và những tầu chuối nằm ngửa, ưỡn cong lên hứng lấy trăng, xanh rười rượi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình.

Chí Phèo vừa tò mò nhìn những tầu chuối vừa đi xuống vườn. Nhưng hắn không vào cái lều úp xúp mà ra thẳng bờ sông. Hắn định sẽ nhảy xuống tắm cho khỏi ngứa rồi lăn ngay ra vườn mà ngủ: tội gì chui đầu vào lều, bức đến không còn mà thở được. Một thằng như hắn, đập đầu không chết, huống hồ là gió sương... Đến bờ sông, hắn dừng lại, vì hình như có người. Có người thật, và hắn ngây ra nhìn.

Hắn nhìn giữa hai lọ nước và tựa lưng vào gốc chuối, một người đàn bà ngồi tênh hênh. Chính là người đàn bà, hắn biết vậy là nhờ mớ tóc dài buông xõa xuống vai trần và ngực... Hai tay trần của mụ buông xuôi, cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ, hay là chết. Đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệch...; bên kia, có lẽ vì mụ giẫy, cái yếm xẹo xọ để trật ra cái sườn nây nây. Tất cả những cái ấy phơi ra trăng, rười rượi những trăng. Giăng làm trắng những cái có lẽ ban ngày không trắng; giăng làm đẹp lên. Chí-Phèo tự nhiên thấy ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại khô; hắn nuốt ừng ực. Hắn thấy cái gì rộn-rạo ran khắp người. Bỗng nhiên hắn run run. Ồ, sao lại như thế được? Đáng nhẽ chính người đàn bà khốn nạn kia phải run mới phải, cái người đàn bà dại dột đã nằm ềnh-ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn này.

Nhưng người đàn bà ấy lại là thị Nở, một người ngẩn-ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỉ hờn. Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề giài; thế mà hai má lại bóp vào mới thật là tai hại: nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng ở trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành; bành bạnh muốn chen lấn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như dạn ra. Đã thế, thị lại ăn giầu thuốc, hai môi dầy được bồi cho dầy thêm một lần, cũng may, quết trầu xánh lại, che được cái mầu thịt trâu xám ngoách. Đã thế những cái răng rất to lại chìa ra; ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Đã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc biệt của thượng-đế chí công: nếu sang suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất. Và thị lại nghèo; nếu trái lại, ìt nhất đã có một đàn ông khổ sở. Và thị lại là giòng giống của một nhà có mả hủi: cái này khiến không một chàng trai nào phải phân-vân. Người ta tránh thị như tránh một vật nào rất tởm. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa có chồng. Ở cái làng Vũ-đại này, người ta kết bạn từ khi lên tám, và có khi có con từ lúc mười lăm; không ai đợi đến năm hai mươi mới đẻ đứa con thứ nhất. Cứ tình hình ấy thì ta nói quách: thị Nở không có chồng. Mà thị cũng không còn ai thân-thích, trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị. Số giời định thế: để không ai phải trơ-trọi trên đời này. Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tầu đi Hải-Phòng, có khi ra tận Hòn-Gay Cẩm-Phả. Còn thị, sống bằng những nghề lặt-vặt ở làng. Hai cô cháu ở trong một cái nhà tre cách vườn của Chí-Phèo bởi con đê: hắn ở ngoài bãi, hai người ở trong xóm. Có lẽ chính vì thế mà thị Nở không sợ cái thằng mà cả làng sợ ấy. Gần gũi lâu cũng sinh quen, mà quen thì ít khi còn sợ. Những người trông coi vườn Bách Thú thường bảo rằng hổ báo hiền y như mèo. Vả lại có lý gì để thị sợ hắn đâu? Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn-ngơ của mình, mà thị thì chỉ có ba cái ấy. Một phần nữa cũng bởi Chí-Phèo ít khi ở nhà, mà khi hắn ở nhà lại hiền lành: ai có thể ác trong khi ngủ? hắn chỉ về nhà để ngủ.

Ngày nào thị Nở cũng phải qua vườn nhà hắn hai ba lần. Là vì qua vườn nhà hắn có một lối đi nhỏ ra sông; trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm giặt hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến, người ta thôi dần, tìm một lối đi khác xa hơn. Trừ thị Nở: thì đã bảo thị là người dở hơi, thị không thích làm như kẻ khác. Quá tin ở người, quá tin ở mình, liều lĩnh, bướng bỉnh hay có lẽ chỉ vì không chịu rời thói quen. Nhưng hãy biết thị cứ đi ngõ ấy, và vẫn chẳng làm sao cả. Thế rồi quen đi. Có lần trong lúc Chí-Phèo ngủ, thị vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa, có lần thị xin của hắn một tí rượu để về bóp chân; hắn mải ngủ càu nhàu bảo thị rằng: ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì rót, để yên cho hắn ngủ. Và lắm lúc thị ngạc-nhiên: sao người ta ghê hắn thế?

Chiều hôm ấy thị Nở cũng ra sông kín nước như mọi chiều. Nhưng chiều hôm ấy, giăng lại sáng hơn mọi chiều, giăng tỏa trên sông và sóng gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Những gợn vàng ấy rung rung, mới trông thì đẹp, nhưng trông lâu mỏi mắt. Gió lại mát như quạt hầu. Thị Nở thấy muốn ngáp mà mi mắt thì nặng dần, toan díp lại. Thị vốn có một tật không sao chữa được: có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu hay đang làm gì. Bà cô thị bảo thị là một người vô tâm. Ngáp một cái thị nghĩ bụng: hãy khoan kín nước, hãy để lọ xuống, ngồi nghỉ đây. Bởi vì thị đã luật quật đập đất từ trưa tới giờ. Mà mấy khi được một nơi mát thế, mát rợn da, rợn thịt, sung-sướng quá! mát y như quạt hầu. Thị cởi áo ra và ngồi tựa vào gốc chuối, dáng ngồi không kín đáo, nhưng không bao giờ thị biết thế nào là lả-lơi. Con người vô tâm, không hay nghĩ xa xôi mà. Vả lại ở đây chẳng có ai. Chí-Phèo đã về đâu, mà hắn có về thì cũng say khướt đã ngủ từ nửa đường và tới nhà tức khắc chúi đầu vào ngủ nốt. Hắn ra làm gì đây, cho có ra nữa thì đã sao? Thị không thể sợ hắn có thể phạm đến thị bởi cái lẽ rất dản-dị là thị chưa thấy ai phạm đến thị bao giờ. Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế. Tuy óc thị đã có một cái bóng đen lan rồi. Thị không ngồi thì không chịu được.

Ngồi một lúc, thị thấy rằng: nếu cứ ngồi mãi thì ngủ mất. Nhưng thị đã ngủ đến hai phần rồi. Và thị nghĩ: ừ thì ngủ, ngủ thì đã làm sao! Về nhà thì cũng chỉ ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy. Bà cô đi theo hàng ít ra cũng dăm hôm mới về. Thị cứ ngồi đây cho mát. Và thị ngủ. Thị ngủ ngon lành và say-sưa...

Chí-Phèo vẫn say-sưa nhìn và vẫn run run. Bỗng nhiên hắn rón rén lại gần thị Nở: lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng. Thoạt tiên, hắn hãy xách hai cái lọ để ra xa; rồi hắn lẳng-lặng ngồi xuống bên sườn thị...

Và thị Nở giật mình. Thị mới kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám bíu lấy thị... Thị vùng vẫy để ra, thị mở mắt, thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí-Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn, vừa hổn-hển: « Ô hay... buông ra... Tôi kêu... Tôi kêu làng... Buông ra... Tôi kêu làng lên bây giờ ». Thằng đàn ông phì cười. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn mới kêu làng; sao người ta lại kêu tranh của hắn; bỗng nhiên hắn la lên, kêu làng. Hắn kêu như một kẻ bị đâm, vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố ra hai mắt, ngây ra nhìn. Thị kinh-ngạc: sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn vẫn chưa chịu thôi kêu làng. Cũng may người quanh đấy không ai lạ gì tiếng hắn: mà khi hắn kêu làng thì không ai cần động giạng; họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ; hắn kêu làng cũng như người khác buồn hát ngao. Đáp lại hắn, chỉ có lũ chó cắn xao lên trong xóm.

Thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị vừa rủa, vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy lại rúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau...

Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau... Đứa trẻ bú no thì ngủ. Người ta ngủ sau khi làm việc yêu. Chúng ngủ như chưa bao giờ đuợc ngủ. Trăng vẫn thức, vẫn trong trẻo... Trăng rắc bụi trên sông, và sông gợn biết bao nhiêu vàng...

Nhưng gần đến sáng, bỗng Chí-Phèo trống một tay xuống đất, ngồi lên một nửa. Hắn thấy người nôn nao, chân tay bủn rủn, như đến ba ngày nhịn đói. Thế mà bụng lại phinh phích đầy. Hình như bụng hơi đau Còn hình như gì nữa, thôi đúng đau bụng rồi. Đau thật! đau mỗi lúc một dữ! nó cứ cuồn cuộn lên. À mà giời lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn rươn rướn người. Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá, mà chân thì bẩy rẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người. Hắn oẹ. Hắn oẹ ba bốn cái. Oẹ mãi. Giá mửa ra được thì dễ chịu Hắn cho một ngón tay vào móc họng. Hắn oẹ một cái to hơn, ruột hình như lộn lên. Nhưng cũng chỉ nhổ ra toàn nước rãi. Hắn nghỉ một tý rồi lại cho tay vào mồm. Lần này thì mửa được, trời ôi! mửa thốc, mửa tháo, mửa ồng ộc, mửa đến cả ruột. Đến nỗi người đàn bà phải dậy. Thị ngồi nhỏm dậy và ngơ ngác nhìn. Cái óc nặng-nề ấy phải lâu mới nhớ ra và lâu-mới hiểu.

Bây giờ thì Chí Phèo đã mửa xong Hắn mệt quá, lại vật người ra đất. Hắn đờ hai mắt ra khẽ rên; hắn chỉ còn đủ sức để rên khe khẽ. Từ đống mửa bay lại một mùi gì thoang-thoảng như mùi rượu; hắn bỗng nhiên rùng mình.

Thị Nở xích lại. đặt bàn tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ mới xong). Thị hỏi hắn:

— Vừa thổ hả?

Mặt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một loáng rồi lại đờ ra ngay.

— Đi vào nhà, nhẻ?

Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động-đậy, chỉ có cái mí mắt là nhích thôi.

— Thì đứng lên.

Nhưng hắn đứng lên làm sao được. Thị quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều.

Không có giường, chỉ có một cái chõng to. Thị để hắn nằm lên, và đi nhặt-nhạnh tất cả các manh chiếu rách đắp lên cho hắn. Hắn hết rên. Hình như hắn ngủ. Thị cũng lim-dim chực ngủ. Nhưng trong nhà nhiều muỗi quá. Muỗi nhắc cho thị cái áo quên ngoài vườn. Thị ra vườn. Đôi lọ nhắc cho thị việc đi kín nước. Thị mải mốt mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi về nhà.

Giăng chưa lặn, không chừng giời còn khuya. Thị lên giường định ngủ. Nhưng thị lại nhớ lại việc lạ-lùng tối qua. Thị cười. Thị thấy không buồn ngủ, và thị cứ lăn ra lăn vào.

Khi Chí-Phèo mở mắt thì giời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực-rỡ. Cứ nghe chim ríu-rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây, người ta thấy chiều lúc xế chưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí-Phèo nhận thấy thế, bởi chưa bao giờ hết say.

Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng-khuâng như tỉnh dậy, sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dạy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhắc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn-nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui-vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!

— Vải hôm nay bán mấy?

— Kém ba xu, dì ạ.

— Thế thì còn ăn thua gì!

— Có khéo co mới được một tấm năm xu.

— Thật thế đấy. Nhưng chẳng nhẽ rằng lại chơi...

Chí-Phèo đoán chắc rằng một người đàn-bà hỏi một người đàn-bà khác đi bán vải ở Nam-Định về. Hắn lại nao nao buồn. Là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa-xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia-đình nho-nhỏ. Chồng cuốc mướn cầy thuê. Vợ dệt vải. Chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm sào ruộng làm.

Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa-soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy-đọa, cực-nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ-thể đã hư-hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời giở rét, này mùa đông đã đến. Chí-Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.

Cũng may, thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn-vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất. Thị vào, cắp một rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị dằn-dọc một lát, thị bỗng nhiên nghĩ rằng: cái thằng liều-lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương cho bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị thì hắn chết. Thị kiêu-ngạo vì đã cứu sống cho một người. Thị thấy như yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không quên được. Cho nên thị nghĩ: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao, cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Tiếng « vợ chồng », thấy ngường-ngượng mà thinh-thích. Đó vẫn là điều mong-muốn âm-thầm của con người khốn-nạn ấy chăng! Hay sự khoái-lạc của xác-thịt đã làm nổi dậy những tính-tình mà thị chưa bao giờ biết?

Chỉ biết rằng thị muốn gặp Chí-Phèo. gặp hắn mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm. Gớm! sao lại có thứ người đâu mà lì quá thế! Người ta ngồi đấy mà dám sán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thị cũng ngù ngờ. Cái thằng giời đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu. Nhưng mà, đáng kiếp. thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi là nhẹ-nhõm người ngay đó mà... Thế là vừa sáng, thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu, bỏ vào cái rổ, mang ra cho Chí-Phèo.

Thằng này rất ngạc-nhiên. Hết ngạc-nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn-ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là dật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng-khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn, rồi lại toe-toét cười. Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm có duyên. Hắn thấy vừa vui vừa buồn. Và một cái gì nữa, giống như là ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay hối hận về tội ác khi không đủ sức mà ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn cho nóng. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi! cháo mới thơm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ-nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: những người suốt đời không ăn cháo, không biết rằng cháo hành ăn rất ngon. Nhưng tại sao lại mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo? Hắn tự hỏi rồi lại tự giả lời: có ai nấu cho mà ăn đâu? mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn-sóc bởi một bàn tay đàn bà. Hắn nhớ đến « bà ba », cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa. Nó chỉ nghĩ đến sao cho thỏa nó, chứ có yêu hắn đâu. Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích. Huống hồ lại sợ. Quả thật, từ khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đính, hắn vừa làm vừa run. Không làm thì không được: mọi việc trong nhà, quyền bà ba. Chứ hắn, hắn còn lòng nào đâu! Đến nỗi người đàn bà phát cáu. Bà thấy xa xôi không được, phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng: « mày thực-thà quá! con giai gì mới hai mươi tuổi mà đã như ông già ». Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà lẳng-lơ bảo: « Chả nhẽ tao gọi mày vào để chỉ bóp chân thế này thôi ư?... » Và thấy hắn giùng-giằng, bà mắng xơi xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì. Không, hắn chưa được một người đàn bà nào yêu cả. Vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?

Bát cháo húp xong rồi. Thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm mình bao nhiêu mồ hôi. Mồ hôi chẩy cả trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. Hắn đưa tay áo quệt ngang một cái, quệt mũi, cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu, thương hại. Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi! sao mà hắn hiền! ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mạch và đâm chém người? Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi. Hay trận ốm thay đổi hắn về sinh-lý, cũng thay đổi cả tâm lý nữa? Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm mình mà lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng dật cướp và dọa nạt. Nếu không còn sức mà giật cướp, dọa nạt nữa thì ra sao? Đã đành, hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể liều được nữa. Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! hắn thèm lương-thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường hắn. Thị có thể sống yên-ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã-hội bằng-phẳng, thân-thiện của những người lương-thiện... Hắn băn-khoăn nhìn thị Nở, như thăm dò. Thị vẫn im lặng, cười tin-cẩn. Hắn thấy tự-nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị:

— Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?

Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng không có gì là xấu. Bằng một cái dọng nói và một vẻ mặt rất phong-tình theo ý hắn, hắn bảo thị:

— Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.

Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu cũng lườm. Hắn thích chí, khanh khách cười. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng lòng lắm. Bây giờ thì mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lòng rất vui. Hắn bẹo thị Nở một cái làm thị nẩy hẳn người lên. Và hắn cười. Hắn lại bảo:

— Đằng ấy còn nhớ gì hôm qua không?

Thị phát khẽ hắn một cái, làm cái vẻ không ưa đùa. Sao mà e-lệ thế. Xấu mà e-lệ thì cũng yêu. Hắn cười ngất, và muốn làm thị thẹn thùng hơn nữa. Hắn véo thị một cái thật đau vào đùi. Lần này thì không những thị nẩy người. Thị kêu lên choe choé. Thị nắm cổ hắn mà dúi xuống. Chúng tỏ tình với nhau, không cần đến những cái hôn. Ai lại hôn, khi có những cái môi nứt nẻ như bờ ruộng vào kỳ đại hạn và cái mặt rạch ngang rạch dọc như mặt thớt. Vả lại có những cách âu-yếm bình dân hơn, chúng cấu véo hoặc phát nhau... thiết thực biết mấy...

Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng cũng nhận thấy thế, và nhất định là lấy nhau. Như thế năm ngày chẵn Thị ở nhà hắn cả ngày lẫn đêm, trừ những lúc đi kiếm tiền. Hắn không còn kinh rượu nhưng cố uống cho thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo mà yêu nhau. Đàn bà không có men như rượu, nhưng cũng làm người say. Và hắn say thị lắm. Nhưng thị lại là người dở hơi. Đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội ngày nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã.

Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười. Bà tưởng cháu bà nói đùa. Nhưng chợt nhớ ra rằng cháu bà vốn dở hơi. Bà bỗng trở nên hoảng-hốt. Bà nhục cho ông cha nhà bà. Cũng có lẽ bà tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dài dằng-dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết. Nhưng rồi bà đổ cái uất ức ngay lên cháu bà. Người đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt. Ngoài ba mươi tuổi mà chưa chót đời. Ngoài ba mươi tuổi... ai lại còn đi lấy chồng! Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! mà có lấy thì lấy ai chứ?... Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ. Trời ơi! nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông nhà bà! Bà gào lên như con mẹ dại. Bà xỉa xói vào mặt cái con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời Bà bảo phắt nó:

— Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí-Phèo!

Thị nghe thấy thế mà lộn ruột. Nhưng thị biết cãi bà làm sao? Con người ấy có quyền nói thế, bởi con người ấy năm mươi tuổi rồi, năm mươi tuổi còn ai lấy chồng. Thị biết cãi làm sao. Mà không cãi được thì giận dữ nổi lên lùng lùng. Thị tức lắm! thị tức lắm! thị cần đổ cái tức ấy lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân-ngãi. Thị thấy hắn đương uống rượu, và vừa uống vừa lẩm bầm chửi thị về nhà lâu. Hắn không quên đợi; bởi phải đợi, hắn lại lôi rượu, và uống cho đỡ buồn. Uống vào thì phải chửi, quen mồm rồi! Nhưng thị làm gì mà hắn chửi? Mà hắn có quyền gì chửi thị? Ồ, thị điên lên mất! Thị dậm chân xuống đất, rồi lại nhẩy cẫng lên như thượng đồng. Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Lại còn cười! Nó nhạo thị, trời ơi! thị điên lên mất, trời ơi là trời! Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô. Hắn nghĩ-ngợi một tí rồi hình như hiểu. Hắn bỗng nhiên ngẩn người. Thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt, không nói gì. Thị trút xong giận rồi. Cái mũi đỏ của thị dị xuống rồi lại bạnh ra Thị hả hê lắm lắm. Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về. Hắn sửng-sốt, đứng lên gọi lại. Ai mà thèm lại! còn muốn lôi thôi cái gì? Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay. Thị gạt ra lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân. Đã lăn ra thì hắn phải kêu: bao giờ chả thế. Hắn nhặt một hòn gạch vỡ, toan đập đầu. Nhưng hình như hắn chửa thật say. Vì hắn nghĩ: đập đầu ở đây chỉ thiệt; đập đầu ở đây, để mà nằm ăn vạ ai? Hắn tự phải đến cái nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. Nếu không đâm được; lúc ấy hãy đập đầu ra kêu làng. Muốn đập đầu, phải uống thật say. Không có rượu, lấy gì làm máu cho nó chẩy! Phải uống thêm chai nữa Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mắt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Rồi lại uống. Hắn uống đến say mềm người. Rồi hắn đi. Hắn ra đi vời một con dao ở thắt lưng. Hắn lảm-nhảm: « tao phải đâm chết nó! tao phải đâm chết nó! » Nhưng hắn lại cứ thẳng đường mà đi. Cái gì đã làm hắn quên dẽ vào nhà thị Nở? Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm.

Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết « nó », và cứ đi. Bây giờ đến ngõ nhà cụ bá. Hắn xông xông đi vào. Cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có mình cụ bá đang nằm nghỉ trưa. Nghe tiếng hắn, cụ thấy sao bực mình! Chính thật thì cụ đã đang bực mình.. Bởi vì cụ thấy đầu hơi rức. Cụ đang muốn có một cái bàn tay man-mát xoa cái đầu. Cũng có lẽ, cụ chỉ muốn bà tư đừng đi lâu quá thế. Đi lâu thế, không biết rằng đi đâu? Sao bà ấy còn trẻ quá! Gần bốn mươi rồi mà trông còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa! Cụ năm nay đã ngoài sáu mươi. Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Giá thế thì bà ấy chỉ cũng già cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ. Khác gì nhìn miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng bà, có duyên, nhưng trông đĩ lắm! Hơi một tí thì cười toe toét, tít cả mắt lại, cái má thì hây hây. Mà thấy ghét những cái thằng giai trẻ, giá làm con bà không đáng, mà thấy bà đâu cũng đùa. Chúng đùa nhạt như nước ốc, chỉ được cái thô tục, mà gặp ai đâu cũng cười! Chẳng nghĩ gì đến địa vị cả, người đâu mà vô tâm! Tức lạ! cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng giai trẻ đi ở tù... Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng không bình tĩnh được. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi tiền uống rượu như Chí-Phèo. Tuy vậy, cụ cũng móc sẵn năm hào. Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người:

— Chí-Phèo đấy hở? Le bè vừa vừa chứ, tôi không phải là cái kho.

Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:

— Cầm lấy mà cút đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à?

Hắn trợn mắt, chỉ tay vào mặt cụ:

— Tao không đến đây xin năm hào.

Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng:

— Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn

Hắn vênh cái mặt lên, rất là kiêu-ngạo:

— Tao đã bảo tao không đòi tiền.

— Giỏi! hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì?

Hắn giõng-giạc:

— Tao muốn làm người lương-thiện!

Bá Kiến cười ha-hả:

— Ồ, tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương-thiện cho thiên-hạ nhờ.

Hắn lắc đầu:

— Không được! Ai cho tao lương-thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương-thiện nữa. Biết không! Chỉ còn một cách... biết không!... chỉ còn một cách là... cái này! biết không!

Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy. Chí-Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí-Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giẫy đành-đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh-thoảng máu vẫn còn ứ ra.

Càng Vũ-đại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án không ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có người nói xa xôi: « Giời có mắt đấy, anh em ạ! » Người khác thì nói toạc: « Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó lại giết nhau, nào có phải cần đến tay người khác đâu ». Mừng nhất là bọn kỳ-hào ở trong làng. Họ tuốn đến để hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lý Cường bằng những con mắt thỏa-mãn và khiêu-khích. Đội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ, Trước mặt bao nhiêu người: « Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn ». Ai chả hiểu « người ta » đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: « Thằng mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn mừng ». Nhưng người biết điều thì hay ngờ vực; họ chép miệng nói: « Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tý gì đâu... »

Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến:

— Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí-Phèo.

Thị cười, và nói lảng:

— Hôm qua làm biên-bản., Lý Cường nghe đâu đã tốn gần một trăm. Thiệt người lại thiệt của.

Nhưng thị nghĩ thầm:

— Sao có lúc nó hiền như đất.

Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống bụng:

— Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?

Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua....

Février 1941

Nam-Cao