Giọt máu chung tình/Hồi thứ hai
HỒI THỨ NHÌ
Dẩn lai lịch tráng-sĩ bán gươm vàng,
Kết lương-bằng Đông-Sơ trao lượng bạc.
Khi Đông-Sơ giục ngựa theo quan lộ, ngày đi đêm nghĩ, xuống ải lên đèo, lúc gần tới đông-kinh, thì thấy một cãnh tỉnh thành đô-hội, đài cát nguy nga, thật là một chổ đại địa phiền ba, cữa nhà đông đảo.
Nguyên chỗ Đông-kinh nầy là một kinh-đô cũ của triều Lê, kêu là Thăng-long-Thành, nay gọi là Tonkin, tục danh là Hà-nội, vì cái Thăng-long-Thành này kế cận nước Tàu, bị quân Tàu nhiều phen giấy động cang qua, đem binh xâm loạn, nên sau dời kinh-đô về tĩnh Thừa-Thiên, nay tục kêu là Huế.
Khi Vỏ-đông-Sơ đương dạo xem phong cảnh. Xãy thấy một người phong nghi tề chĩnh, tướng mạo đường đường, tay cầm một cây gươm, tay xách một tấm bãn, đương đứng ngơ ngẩn ngó mông, xem nét mặt dường như có đều chi sầu nảo.
Đông-Sơ bước lại thấy trên tấm bãn viết 4 chữ « Mại kím táng thân » nghĩa là bán gươm mà chôn mẹ, thì lấy làm lạ, liền bước lại, gạn hỏi căng do, và tánh danh xứ sở cũa tên ấy.
Tên bán gươm nói: « Tôi là người ở Hà-đông tên là Triệu-Dỏng. Nguyên cha tôi mất sớm, nên gia đạo hàng-vi, vì vậy tôi thường lên núi Tây-kỳ mà chuyên nghề săng bắn. Rủi mấy tháng nay mẫu thân tôi bịnh nặng, mãng lo săng sóc thuốc thang, và ở nhà mà giữ sự thần tĩnh mộ khan, nên cuộc sanh nhai bê trể; nay lại rủi mẹ đã ly trần, phần thì gia đạo cô bần, không tiền bạc đặng lo bề tống táng. Nên cực chẳng đã tôi phải đem gươm ra bán, hiềm vì chưa gặp người mua. Có người hỏi tôi giá bán bao nhiêu, tôi nói 30 lượng bạc, thì chê rằng mắc.
Đông-Sơ nghe nói, liền xuống ngựa, và bước lại nói với tên ấy rằng: Cãm phiền tráng-sĩ, xin cho tôi coi thữ cây gươm, rồi lấy gươm rút vỏ ra coi, thấy mội ánh hào quang, chói lòa con mắt; thì biết là một cây gươm báu, trên cáng đều khãm vàng và chạm đầu sư-tữ, còn bên cáng có khắc 4 chữ « Vỉnh-lịch niên-chế. »
Đông-Sơ xem rồi liền đúc vô vỏ và day lại hỏi tên ấy rằng: Nguyên cây gươm nầy là của người Tàu chế ra trong năm vua Vĩnh-Lịch, đời Minh bên Trung-quốc, song chẳng biết duyên cớ nào lại về nước Nam ta, mà vào tay tráng-sĩ?
Tên bán gươm nói: « Phải, gươm nầy là của một vị tướng quân Triều nhà Minh. »
Đông-Sơ nghe nói day mắt ngó tên kia và lấy làm lạ mà hỏi rằng: « Nhưng tráng-sĩ có rỏ vị tướng quân ấy tên chi chăng?
Tên kia nói: « Tôi là lớp hậu sanh niên thiểu cũng như quới khách, lẻ đâu rỏ đặng, song khi cha tôi còn sanh tiền có thuật cái lai-lịch gươm ấy cho tôi nghe. »
Đông-Sơ nói: « Vậy thì xin tráng-sĩ vui lòng thuật lại cho tôi nghe ước có đặng chăng?
Tên bán gươm nói: Nguyên cây gươm nầy gốc của một vị tướng quân Triều nhà Minh tên là Lý-Tường. Khi Mãng-Châu qua lấy Trung-quốc rồi, thì Lý-Tường theo hộ-giá vua Vĩnh-Lịch chạy qua tá ngụ nơi nước Miến-Điện. Chẳng dè Ngô-tam-Quế đem binh rượt theo, rồi gởi tờ công Hịch cho vua Miến-Điện, hạn nội ba ngày phải bắt vua Vĩnh-Lịch mà hiến nạp, bằng không, thì sẻ đem binh qua đạp đỗ thành quách nước Miến-Điện ra bụi tro bình-địa. Vua Miến-Điện thất kinh, liền bắt vua Vĩnh-Lịch mà nạp. Nói tới đây thì thở ra một cái và ngó Đông-Sơ mà hỏi rằng: Quới khách có biết vua Vĩnh-Lịch sẻ trở ra thể nào chăng?
Đông-Sơ nói: Xin tráng-sĩ hãy nói luôn, tôi đâu rỏ đặng.
Tên bán gươm bèn nói tiếp rằng: « Vua Vĩnh-Lịch bị Ngô-tam-Quế giết chết tại Vân-nam một cách rất ghê ghớm thãm thay cho dòng giõi cơ đồ của Triều nhà Minh, từ đây bị một tay Ngô-tam-Quế mà tiêu điều tận tuyệt. »
Đông-Sơ nói: Tôi nghe rằng: Ngô-tam-Quế vẩn là một vị Phiên trấn đại thần của Triều-Minh; quyền cao tước trọng, lộc cã ngôi sang, và tổ-phụ của Tam-Quế cũng đều hưởng thọ tước lộc của Triều-Minh sao lại phụ phản Triều-Minh? Mà sát hại vua Vỉnh-Lịch? Vậy thì rỏ ràng là một đứa gian thần tặc tữ lắm chăng ? »
Tên bán gươm thở ra một cái nữa rồi nói: Phải. Hễ con người như vậy, thì là một đứa đã táng tận lương tâm, nào kễ chi ngọn bút của sữ quán châm chích chê bai, và miệng thế gian nghị luận. Song cái sự độc ác ấy làm cho trời giận đất hờn, nhơn dân đều bầm gan tiếm ruột. Rồi có một sự quả báo kia trả liền trước mắt.
Đông-Sơ nghe nói thì mắt ngó tên kia sững sờ mà hỏi rằng: Tráng-sĩ nói một sự quã báo trã liền trước mắt, mà quả báo làm sao?
Quã báo ấy là khi Triều-Thanh vua mãng Châu dòm thấy cái tiêm đen của Ngô-tam-Quế chứa những quĩ ma độc ác phi thường, thì biết là một đứa phãn tặc nghịch thần, liền bắt mà tru di tam tộc. »
Đông-Sơ nghe rồi gặt đầu hai ba cái, và mĩnh cười mà nói rằng: « Vậy mới gọi là Hoàng-thiên hữu nhãn, tạo hóa công bình, đó là một gương quã báo nhãn tiền, đễ mà răn người bạo ngược. Còn như cây gươm nầy vì làm sao mà ngày nay về tay tráng-sĩ? »
Tên kia nói: « Khi vua Vĩnh-Lịch bị Ngô-tam-Quế giết rồi, thì các tướng tâm-phúc của vua đều phân phân tứ táng, tốp thì chạy qua Xiêm mà trú ngụ, tốp thì chạy qua nước Nam ta mà tìm tàng. Lúc ấy có một Tướng-quân tên là Lý-Tuồng, gặp ông cố tôi làm Tổng-binh tại Bắc-giang, bèn cho cây gươm nầy để làm kỷ-niệm: Vì vậy gươm nầy của Tỗ-phụ lưu truyền qua tới tôi đây, đã 4 đời rồi, nay rũi tôi gặp cơn gia biến, thãm thay! bị chữ sàng đầu kim tận, làm cho Tráng-sĩ vô nhan, tôi đã hết thế lo toan, nên bất đắc dỉ phải đem gươm ra bán. »
Đông-Sơ nghe nói rồi liền thò tay vào túi, lấy ra 50 lượng bạc, hai tay đưa cho tên kia mà rằng: « Tráng-sỉ ôi! trong lúc gặp gở thình lình, vậy tôi xin tráng-sĩ nhậm lấy của mọn nầy mà tống tán từ-nương. Còn gươm nầy thì xin Tráng-sĩ giữ lấy mà làm dấu tích của Tỗ-phụ lưu truyền, và như Tráng-sĩ bằng lòng, thì tôi xin kết làm bằng-hữu.
Triệu-Dỏng (tên bán gươm) thấy Đông-Sơ thật một người khoan nhơn bác ái, hào hiệp trượng phu, thì vói tay lấy 50 lượng bạc, rồi rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: « Quới-khách ôi! nay quới khách trao cái của nầy mà giúp cho kẻ hàng vi hạ sĩ trong cơn thắt ngặt cùng đồ, thì tôi biết lấy chi mà báo đáp ơn sâu, ví tày sông biển; vậy tôi đứng giữa trời cao đất rộng nầy, xin nguyện một lời rằng: nghỉa ấy tôi tạc dạ ghi xương, ngày sau sẻ đền ơn tri ngộ.
Đông-Sơ nói: sự ấy là lẻ tự nhiên của người ở thế-gian nầy, phãi giúp nhau trong cơn hiểm nguy thắt ngặt, nếu thấy sự lâm nguy ngộ biến, mà tọa thị bàn quang, làm mặt lấp tai ngơ, chẳng biết thi ân trọng nghĩa mà giúp đở anh em, thương yêu nòi giống, thì người ấy có ích chi cho nước non xã hội. Nói rồi hai người gá nghĩa anh em kết tình bằng hữu. Triệu-Dỏng nhỏ hơn Đông-Sơ một tuổi nên kêu Đông-Sơ bằng anh.
Lúc đó anh em bịn rịn nhau một hồi, rồi mới phân tay từ biệt, kẻ về Hà-đông lo cất táng mẩu thân, người lại Đông-kinh đặng kiếm nhà thuê ngụ.