Khải huyền/9

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Khải huyền của Thánh sử Gioan, do Phan Khôi dịch
Đoạn 9

Thiên-sứ thứ năm thổi loa

91 Vị thiên-sứ thứ năm thổi loa, thì tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và được ban cho chìa-khóa của vực sâu không đáy. 2 Ngôi sao ấy mở vực sâu không đáy ra, có một luồng khói dưới vực bay lên, như khói của lò lửa lớn; mặt trời và không-khí đều bị tối-tăm bởi luồng khói của vực. 3 Từ luồng khói ấy, có những châu-chấu bay ra rải trên mặt đất; và có kẻ ban cho chúng nó quyền giống như bọ-cạp ở đất vậy. 4 Có lời truyền cho chúng nó chớ làm hại loài cỏ ở đất, thứ xanh và cây-cối nào, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn Đức Chúa Trời ở trên trán. 5 Lại cho chúng nó phép, không phải là giết, nhưng là làm khổ những người đó trong năm tháng, và sự làm khổ ấy giống như sự làm khổ khi bọ-cạp cắn người ta. 6 Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm sự chết, mà không tìm được; họ sẽ ước-ao chết đi mà sự chết tránh xa.

7 Những châu-chấu đó giống như những ngựa sắm sẵn để đem ra chiến-trận: trên đầu nó có như mão triều-thiên tợ-hồ bằng vàng, và mặt nó như mặt người ta; 8 nó có tóc giống tóc đờn-bà, và răng nó như răng sư-tử. 9 Nó có giáp như giáp bằng sắt; và tiếng cánh nó như tiếng của nhiều xe có nhiều ngựa kéo chạy ra nơi chiến-trường. 10 Đuôi nó có nọc, như bọ-cạp, ấy bởi trong những đuôi đó mà chúng nó có quyền hại người ta trong năm tháng. 11 Nó có vua đứng đầu, là sứ-giả của vực sâu, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là A-ba-đôn, tiếng Gờ-réc là A-bô-ly-ôn.[1]

12 Nạn thứ nhứt đã qua; nay còn hai nạn nữa đến sau nó.

Thiên-sứ thứ sáu thổi loa

13 Vị thiên-sứ thứ sáu thổi loa, thì tôi nghe có tiếng ra từ bốn góc bàn-thờ bằng vàng đặt trước mặt Đức Chúa Trời. 14 Tiếng ấy nói cùng vị thiên-sứ thứ sáu đương cầm loa rằng: Hãy cổi cho bốn vị thiên-sứ bị trói trên bờ sông cái Ơ-phơ-rát. 15 Bốn vị thiên-sứ bèn được cổi trói, đã chực sẵn đến giờ, ngày, tháng, và năm ấy, hầu cho tiêu-diệt một phần ba loài người.

16 Số binh kỵ-mã của đạo quân là hai trăm triệu; số đó tôi đã nghe. 17 Kìa trong sự hiện-thấy, tôi thấy những ngựa và kẻ cỡi ra làm sao: những kẻ ấy đều mặc giáp màu lửa, mầu tía, mầu lưu-hoàng; đầu ngựa giống như đầu sư-tử, và miệng nó có phun lửa, khói và diêm-sanh. 18 Một phần ba loài người bị giết vì ba tai-nạn đó, là lửa, khói, và diêm-sanh ra từ miệng ngựa. 19 Vì quyền-phép của những ngựa ấy ở nơi miệng và đuôi nó; những đuôi ấy giống như con rắn, và có đầu, nhờ đó nó làm hại người.

20 Còn những người sót lại, chưa bị các tai-nạn đó giết đi, vẫn không ăn-năn những công-việc bởi tay chúng nó làm, cứ thờ-lạy ma-quỉ cùng thần-tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá, và gỗ, là những tượng không thấy, không nghe, không đi được. 21 Chúng nó cũng không ăn-năn những tội giết người, tà-thuật, gian-dâm, trộm-cướp của mình nữa.

  1. A-ba-đôn nghĩa là vực sâu, hay là sự hủy-diệt; A-bô-ly-ôn nghĩa là kẻ hủy-diệt.