Lục Vân Tiên (bản Nôm 1916)/IV

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Chữ Nôm Tiếng Việt

次尼細次𦋦𠁀
云仙課畧於尼厨廛
姅𣈘𦣰𧡊翁仙
񠟅朱񣕇茦񣀟連𤎜𦋦
計自染病塘賖
典񣐯計吏啐它𦊚𠄼
歳吒񣐯㐌𠄼𠄻
郑𢚸𢖵旦潭又淚沙
雲仙阻吏圭茄
漢明迻塊𠄼𠀧淡塘
仙浪些吏故鄕
恩饒𡢐﨤科塲仕咍
明浪񣐯本񠟝埋
㝵𠸗莫沛案苔遁𠫾
敢񠶀排𩈘𦋦詩
㐌仃𠄩𡦂歸依厨尼
仙浪志鄧傘𩄲
㝵𡢐拱併森𡆫買饒
𦊚𢆥噷唿醬蒌
苦񣛦群𦬑𢀨𢀭𦬑񠂚
𣅶虚拱固𣅶𢧚
勸𤽗񣘋胣朱𥾽討𣦍
漢明於吏奄𩄲
雲仙𧗱𠬠𣎃迡細尼
六翁渃񣀟𣻆淶
埃咍昆𤯩𨕭𠁀共吒
𥯎廊注博𧵆賖
調𢜠𧼋細秩茄𠳨𠽄
翁浪啐㐌𦊚𢆥
昆芒疾病咹𦣰尼񠆒
仙浪患񠝦掣包
媄碎墳墓尼񠆒㐌安
達𦋦礼物産床
讀排文祭畧盘銘生
𣷮鐄𩲉媄固灵
証朱昆𥘷𢚸誠㝵񣐯
想皮源渃桧核
功高𠦳丈恩苔𠃩𦝄
推𠊚𦣰這哭𣒣
𠄩𨑮𦊚討񠟝朋𠁀𠸗
雲仙渃񣀟如湄
祭耒吏𠳨񠡡𠸗於茄
翁浪固矯月娥
泊鐄񠟅𢩾񣊀茄鄧吹
洳娘𢧚買𦋦皮
񠟝之苦𩛜於圭虚耒
雲仙𦖑呐唉喂
蠲情𢪀吏𠬠囬𦀊𥹰
𠳨浪娘𧘇於񠶀
朱碎細妬答句恩情
六翁哙񠡡朝廷
頭𡳪𡀯񡄋訴情񠡱仙
矯公𣈙於西川
拱爲縸佞񠁖權𧻐𦋦
仙浪感񠓃月娥
碎吀戈妬𠽄吒娘共
西川買淡𣦎衝
細尼𦋦񣀟矯公哭連
娘群扵准渃畨
別牢﨤特云仙𣇜尼








矯公遣於吏低
𣋚埋𧡊񠙮朱虧񣠨𢚸
雲仙於𠬠𢆥𣳔
温潤經史底防񠒾詩
侈𦖑𣈙㐌典期
雲仙𠓨񠐛嗔𠫾應場
𧗱茄辝謝嚴堂
京師𠦳淡𠬠塘𣦎񠒾
雲仙中状元科
𢪀񠒾𢆥子寔񠒻𢆥񣐯
課𠸗柴呐叱咍
北方﨤𤝞񠒾𣈙𢧚名
雲仙𠓨謝朝廷
令頒帶帽朱荣皈𣈙
侈𦖑信賊畨西
兵𡆫外隘㐌苔兎山
楚王判畧凱鐄
状元񠒾飭擛乱朱衝
状元跪畧陛𧏵
嗔朱𠬠將饒񠡱提兵
固𠊚户漢𠸜明
飭当項羽孟鯨張飛
㝵𠸗縸案苔𠫾
񣐯𧗱於𡶀翠微隐𠇮
楚王判畧朝廷
𠰺𦋦他罪漢明隊𧗱
先鋒𠄩𡦂旗題
漢明𣈙特預掑雲仙






調񠟅兵馬𠫾連
衝霜蹅雪細沔隘関
边畨𠄩將堂又
𠬠払火虎𠬠払水竜
吏添骨突元戎
񣀟韜𩅘񣇩相凶𨔍𨓡
漢明񠒾飭先鋒
打񠡱火虎水竜𠬠回
漢明𢭄𠖈雷霆
𠄩払調沛𠬠辰𠇮亡
元戎骨突浽衝
𠄩𤽗񠈒鈽打񠡱漢明
漢񠒾飭孟敵鯨
𧡊払化法秩𠇮𧼋𨆢
雲仙頭隊金魁
𢬣扲超泊𠇮񠡊馭烏
𠬠𠇮𥄮陣衝無
񠡱𤽗骨突打朱最㝵
倍横𢮿馭朋񣐯
傳軍以𧖱題𣦍𦰟旗
𠀧軍劍敎調抒
火魔䀡𧡊𠬠除調散
法񠒾骨突驚惶
𤇊又浮陣打񠡱雲仙
雲仙𨀈細陣前
共𤽗骨突打連最㝵
沙机𠬠丿𧼋𣦍
状元逐馭及𣈙𢬭蹺
񠢥戈𣃣鄧񣠫岧
感傷骨突運𠨪奈包
𧼋昂戈𡶀烏巢

状元鉆骨突耒
頭撩古馭𪔠回收軍
諸軍𦊚費調㖫
𡗶它最񣞿別澄𧵆賖
冲𨉓㐌𩛜㤕𢚷
𠬠𨉓冲𡶀別𦋦𡉦񠆒
𡏦𨒺冲𡶀烏巢
姅店盘論塘𠓨𡉦𦋦

次尼細次月娥
於低併它欣𠀧𢆥耒
𣈘𣈗炵𦰟畑𡎢
񠟝咍冲胣徘徊𡀯之
񠠣音𢈱畧群𥱬
吹𢧚胣妾喓𠻗待𢙇
㐌停𥒥񠠤鐄派
㐌仃𠖈准泉񠊀﨤饒




月娥渚掣浽愁
侈𦖑岳馭於񠶀細茄
呌浪埃於冲茄
塘𧗱񠡔隘指𦋦朱𨉓
月娥𡎢𢜝爫清
状元𠖈馭𢬣[?] 𢭹𠓨
老妑曳𠳨𠊚񠆒
店𣅘𨔍𩈘敢𠓨茄些
浪碎國状楚家


爲蹺擛賊烏戈落塘
老妑𦖑呐驚惶
尖蒌渃倍鐄񠂌𦋦
状元𡎢𥄮月娥
兑𥆾幅像𢚸它生񠡳
𠳨浪像𧘇像之
𠰙埃窖𡳒容񠀩񡄌𨉓
頭𡳪渚訴事情
老妑呵呐姓名朱詳
老妑񠟝敢呐奸
像尼本寔񣗏娘𡎢低
状浪娘𨁯吏低
呐冲𠸜户像尼些𦖑
月娥胣唉胡񠡳
𥆁𥆾從񠙮吏𠲖𨔍𠊚
𡎢枝𢬣袄虎𤽗
状元䀡𧡊𠲶唭𠬠欺
爫牢娘񠟝呐𠫾
買𢈱些𠳨񠤼夷񠟝𦋦
月娥𧡊𠳨疎戈
𠊚冲幅像𠸜񠒻雲仙
払它𧗱准九泉
妾爲傷𢖵另沔𩙌𦝄
状元欺𧘇𠳨㕫
񣗏񠒻𠸜𧘇𡞕񠒻𠸜之
月娥訴事𠬠欺
状元倍𡲤𠖈跪𥿺𢬣
疎浪񣐯﨤娘低
嗔迻𦊚񠐛仕排源干
񠋱𠳒誓海盟山
芒恩畧沛謝恩朱耒
雲仙本寔𠸜碎
﨤饒񣐯㐌匪囬約񢀏
月娥榜浪巴񠁎
姅𢜠姅𢜝姅疑浪畨
疎浪払沛雲仙
呐𦋦𣅶畧根源仍񠒻
状元呐昔𠸗𦋦
月娥欺意哭和如湄
恩情強計強唹
当群盘泊𡗶𣃣𤎜𦋦
侈𦖑軍喝񠢃移
𦊚皮坡𦹷調𡆫干戈
状元連馭阻𦋦
𦰟旗題𡦂𠸜񠒻漢明
漢明欺𧘇仃兵
英㛪𢜠𠴊訴情񠡱饒
明浪良嫂於񠶀
朱㛪𦋦񣀟姉妯񠣛񠆒
状元񠟅漢明𠓨
月娥𨅸曳𠰘嘲貴員
明浪想姉於畨
决񠟅兵馬細沔烏戈
񣐯它森合𠬠茄
擛它安賊欧񠠥囬朝
状浪娘併爫牢
娘浪英唉囬朝奏𨖲
仰񣟘量𢌌皮𨕭
嗔他罪畧買𢧚仍񠒻
状元辝謝老妑
吲𠻀𠳚吏月娥𣈜񠊉
些辰𥙩幅像尼
奏戈塊罪逴𣦍𧗱茄
仙明𠄩馭阻𦋦
񠟅兵阻吏朝񠠥𠬠皮
楚王𦖑状元𧗱
朱官𦋦逴𠓨掑边凱
楚王𨀈𠖈金階
𢬣񠂌񣕇𨢇賞才状元
判浪朕𢜝渃畨
固𤽗骨突法仙𨔍𨓡
񣐯麻除骨突衝
寔𡗶生状𢩾冲渃茄
񠂎油畧固状𦋦
爫之典浽月娥貢胡
令傳待宴朝都
咹𢜠񠊉㐌西烏擛耒
状元跪奏𠬠囬
月娥各傳頭𡳪𤑟𤉜
楚王𦖑奏根原
判浪朕想娘群於畨
񠟝񠡳娘貝状元
񠡱饒課畧泣縁𣅶頭
太師畧陛連奏
西畨曳賊閉𥹰拱爲
詐婚怨񣅐群𥱬
月娥娘意罪欺㐌仃
太師温奏朝廷
񠆒根原畧事情仍之
状元𦋦畧陛跪
𤼸𨖲幅像𠬠欺爫憑
楚王䀡像判浪
月娥貞節共朋𠊚𠸗
於𠁀牢񠟝別馭
少之昆𡛔麻迻細娘
油朱日月𤑟𤉜
坤𤐝𡊱挹拱芒㗂𠁀
𠖈𡗶埃敢改𡗶
񠡡尼爲朕𦖑𠳒太師
状元奏事太師
爫碎񠟝鄧吏私怨񠢀
加添浽񡄍郑歆
郑歆課畧謀񠢀害碎
񣐯㐌𤑟񠙮佞耒
仰𥉩量圣栽培񠣛񠆒
楚王陳判冲朝


太師悶併理񠆒㝵𡢐
咍񠒻董卓謀溇
餒񣟘吕布防欧漢權
咍񠒻元載謀𥢆
餒񠾈雀彦蒙專茄唐
咍񠒻安石𠺙奸
餒񠾈秦卞防筭宋朝
𠁀𠸗碎佞別包
太師㐱固恪񠆒曹喂
筭專倚𡄎嵬𡗶
𧡊𠊚忠正劍𢈱񠖚坡
典񣐯買訴正邪
拱爲課畧在些𨇒用
傕匕些拱𢌌容
太師拮聀𧗱共民間
郑歆񠒻񣁏暴残
交朱囯状默筭法刑
月娥񠒻𡛔忠貞
敕封郡主顕荣朱娘
矯公復聀太卿
吏封巡撫東城治民
状元寔等良臣
敕封相囯畧行公卿

漢明封聀縂兵
英㛪𢜠謝丹庭調𨆢
户王户漢户裴
共饒㕵𨢇調盃調唭
状浪嗔𠳨𠬠𠳒
郑歆罪畧各𠊚併牢
左刀引郑歆𠓨
񠙮𥆾𧡊伴𠲶嘲浪英
明浪埃曼呌英
畧它񠟅𠺙񠟝苓辰傕
引𦋦鉆郭朱耒
底之𣘃񣀟苦𡎢錦肝
񠏑浪英渚呐昂
折𧋆埃用鎌鐄爫之
𠸗񣐯񠋱𠁂񠠬񠀩
油朱奴𤯩爫之成身
歆浪洳量大人
本碎買曳𠬠吝嗔容
状浪些𨅸英雄
񠆒埃固𣩁𠁂񠡱爫之
傕又些拱𢌌推
傳軍񣉽𨴦𨒻𠫾朱耒
郑歆塊𣩂𢜠盃
倍鐄跪𥛉嗔𨆢𦋦𧗱
群𤽗裴儉񣆬羝
虎𤽗告病嗔𧗱矯𥹰
漢明子񠏑𠓨奏
嗔迻國状及朝荣歸
𠬠𤽗裴儉񠟝𠫾
冲𢚸它𢢆拱爲虎台
状元車駕倍鐄
差軍户𧗱逴娘月娥
泊鐄񠟅謝老妑
逴娘迻細𣦎戈東城
網條梇񣇩𦆆𣛟
状元子񠏑漢明𨕭塘
郑歆𧗱細寒江
㳥神浽曳船払沉𦖑
郑歆沛񠢙𠽆屍
寔𡗶果报理尼叱㕰
爫𠊚񠟝𢪀畧𡢐
謀溇吏默莫祸溇񠟝迡
小童畧𡨹墓尼
㝵戈𣎃論㐌苔𠀧𢆥
碎𠫾勸教買𢆥
併񠟅骸骨𧗱𠽄主茄
嫌爲񠟝固𠊚些
唉群疎矧𠓨𦋦渚𧗱
状元𣃣細大堤
傳軍𩂏壙祭兮童𠸗
想情師弟過唹
拱爲户郑課𠸗謀񠢀
讀文配動冲𢚸
𠄩行渃񣀟𣳔又如湄
侈񠶀𡗶坦窖迻
小童𧼋細𨅸𣃣𠬠边
𥄭𠓨牌位𧡊𠸜
郑𢚸童買哭𨕭闭除
状元𥄭吏承唹
姅信浪伵姅񠡳浪麻
𢬣捞渃񣀟𨀈𦋦
小童𡥵於񠶀麻細低
辰昆呵呐񠡱柴
根由渚𤑟故尼爫牢
小童達񣡯奏𠓨
闭𥹰𨻫𠹾音耗汜油
排𠳒叙事𡳪頭
𠀧𢆥𨻫𠹾惨愁細񣐯
悲除伵㐌﨤柴
荣花𠬠課森[?]干牟
状元車駕𠖰連
丿񠶀㐌細𧵆沔秦江
武公自𠖈𣷮鐄
彩鵉񠡱媒瓊荘𤴬愁
媄昆仍莽卢欧
𦖑雲仙𤯩﨤朝公名
浪些初拱恩情
沛𦋦迍逴払荣皈񠊉
鵉浪𨉓於񠟝񣓘
𠲖𠊚群𢖵仍㝵冲𡎟
荘浪昆固紅顔
朱払𧡊񠙮辰払乙唹
񠂎油固𢖵跡𠸗
媄昆些吏杜承武公
񠡱饒盘論㐌衝
𤐝𠻁打蠟𦟐紅逴縁
񣐯㐌細𣅶状元
寒江𧗱細侈連埬軍
泊鐄珠玉襖裙
状元񠟅細𡊰恩魚樵
漁樵񠊉㐌名標
恩𦋦𠬠貝𧵑𡗉𤾓車
状元辝謝𦋦𧗱
𧡊瓊荘細𡎢掑捉軍
彩鵉畧駕欽傳
媄昆碎細𦋦侯状元
父親㐌𠖈黄泉
嗔傷𥙩妾婵娟分尼
状浪挷鉢渃苔
覩𣦍𠖈坦㧾񠊉朱衝
寃家女畧呂衝
少之𢧚浽麻蒙細隊
漢明子񠏑調𥋳
𠽋唭花窖爫𠿃嘹蜂
񠂌朱𢚸񠟝𢢆𢚸
群芒񠙮細㧼蓬爫之
明浪牢񠟝於𠫾
𧗱朱嫂嫂拖欺捇𨃐
媄昆𨅸時春台
調卞辝謝疎񠊉𨀈𦋦
阻𧗱渚及細茄
𧡊𠄩翁𤜯𧼋𦋦迍塘
汰調扒媄昆娘
񠟅𧗱吏補冲𡎟蒼松
𦊚皮𥒥泣莂蓬
媄昆嘆哭坤񣟘𨅸𡎢
𠁀𠸗呂女񠋱回
惜台񣟸粉點味闭𥹰
唉𠊚爫𡢼𠊚𡢐
﨤欺患񠝦񠡱饒񣞊𧷺
仃群抔斫媄昆
托它𠅍刧㗂群碑名

*

* *


状元𧗱細東成
六公񣐯㐌𡏦营於廊
排𦋦六礼産床
各官𠫾户𡠣娘月娥
𡢽爺㐌称𡢽爺
񠊉𢜠𠄩户𠬠茄成身
𤾓𢆥誰𤎜精神
生昆特񠣨𨃴璘𠁀匕
嫌爲格阻堆尼
𢧚之沛寫𢁍𠳒吟哦
底麻除待儒家
沛修節行買𦋦歷𠊚
仃群悲𢪀事𠁀
根由自意𠳨𡗶麻傕

1665Thứ này tới thứ ra đời[1],
Vân Tiên thuở trước ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhiễm bệnh đường xa,
1670Đến nay kể lại trót đà bốn năm.
Tuổi cha nay đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ đến đầm đầm lệ sa.
Vân Tiên trở lại quê nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
1675Tiên rằng: "Ta lại cố hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng: "Nay vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,
1680Đã đành hai chữ quy y[2] chùa này".
Tiên rằng: "Chí đặng tán mây,
Ngày sau cũng tính sum vầy với nhau.
Bốn năm hẩm hút tương rau[3],
Khó hèn còn nợ sang giàu nỡ quên.
1685Lúc hư cũng có lúc nên,
Khuyên ngươi giữ dạ cho bền thảo ngay".
Hớn Minh lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
1690Ai hay con sống trên đời cùng cha.
Xóm làng chú bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Trót đã bốn năm,
Con mang tật bệnh ăn nằm nơi nao?"
1695Tiên rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
Mẹ tôi phần mộ nơi nào đã an?"
Đặt ra lễ vật sẵn sàng,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh[4]:
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
1700Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bề nguồn nước cội cây[5],
Công cao ngàn trượng ơn đầy chín trăng[6].
Suy người nằm giá khóc măng[7],
Hai mươi bốn thảo[8] chẳng bằng đời xưa".
1705Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi lại hỏi việc xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có Kiều Nguyệt Nga,
Bạc vàng đem giúp cửa nhà đặng xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề[9],
1710Chẳng chi khó đói quê rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ơi!
Quyên tình nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
Cho tôi tới đó đáp câu ân tình".
1715Lục ông gọi việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên.
"Kiều công rày ở Tây-xuyên,
Cũng vì mắc nịnh cướp quyền[10] đuổi ra".
Tiên rằng: "Cảm nghĩa Nguyệt Nga
1720Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng".
Tây-xuyên mấy dặm thẳng xông,
Tới nơi ra mắt Kiều công khóc liền:
"Nàng còn ở chốn nước Phiên,
Biết sao gặp được Vân Tiên buổi này.
1725Mấy thu Hồ Việt đôi phang[11],
Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lại thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu[12] cho đành?
Hẹp hòi đặng chút nữ sanh,
1730Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn[13]".
Nói rồi lụy nhỏ đôi cơn,
"Cũng vì một sự oán hờn nên gây.

Kiều công khiến ở lại đây,
Hôm mai thấy mặt cho khuây tấm lòng".
1735Vân Tiên ở một năm ròng,
Ôn nhuần kinh sử đề phòng ra thi,
Đứa nghe rày đã đến kì,
Vân Tiên vào lạy xin đi ứng trường.
Về nhà từ tạ nghiêm đường,
1740Kinh sư[14] ngàn dặm một đường thẳng ra.
Vân Tiên trúng Trạng nguyên khoa[15],
Nghĩ ra nămthực là năm nay.
Thuở xưa thầy nói rất hay,
Bắc phương gặp chuột ra rày nên danh.
1745Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban đai mạo cho vinh quy rày.
Xẩy nghe tin giặc Phiên-tây,
Binh vây ngoài ải đã đầy thỏ sơn.
Sở Vương phán trước ngai vàng,
1750Trạng nguyên ra sức dẹp loàn cho xong[16].
Trạng nguyên quỳ trước bệ rồng:
"Xin cho một tướng nhau cùng đề binh[17].
Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng mạnh kình Trương Phi.
1755Ngày xưa mắc án đầy đi,
Nay về ở núi Thúy Vi ẩn mình".
Sở Vương phán trước triều đình,
Dạy ra tha tội Hớn Minh đòi về.
Tiên phong hai chữ cờ đề[18],
1760Hớn Minh rày được[19] dựa kề Vân Tiên.
Nhứt thinh phấn phát oai lôi[20],
Tiên phuông hậu tập[21] trống hồi tấn binh.
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc[22] phá thành Ô-qua.
1765Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.

Đều đem binh mã đi liền[23],
Xông sương đạp tuyết tới miền ải quan[24].
Bên Phiên hai tướng đường đường,
1770Một chàng Hỏa Hổ một chàng Thủy Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt thao tóc đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hỏa Hổ Thủy Long một hồi.
1775Hớn Minh gậy xuống lôi đình[25],
Hai chàng đều phải một thời mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai ngươi xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn ra sức mạnh địch kình,
1780Thấy chàng hóa phép giật mình chạy lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô[26].
Một mình nhằm trận xông vô,
Cùng ngươi Cốt Đột đánh cho tối ngày.
1785Vội vàng quày ngựa bằng nay,
Truyền quân lấy máu đề ngay ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều giơ,
Hỏa ma xem thấy một giờ đều tan.
Phép ra Cốt Đột kinh hoàng,
1790Bừng bừng nổi trận đánh cùng Vân Tiên.
Vân Tiên bước tới trận tiền,
Cùng ngươi Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ một phút chạy ngay,
Trạng nguyên giục ngựa kịp rày đuổi theo.
1795Trải qua vừa đặng bảy đèo,
Cảm thương Cốt Đột vận nghèo nài bao[27].
Chạy ngang qua núi Ô-sào,
Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi!
Trạng nguyên chém Cốt Đột rồi,
1800Đầu treo cổ ngựa trống hồi thu quân.
Chư quân bốn phía đều lăng,
Trời đà tối mịt biết chừng gần xa.
Trong mình đã đói xót xa,
Một mình trong núi biết ra ngõ nào[28].
1805Xoay quanh trong núi Ô Sào,
Nửa đêm bàn luận đường vào ngõ ra.

Thứ này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm ngày chong ngọn đèn ngồi,
1810Chẳng hay trong dạ bồi hồi chuyện chi:
"Quan-âm lời trước còn ghi,
Xuy nên dạ thiếp éo le giãi hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn tuyền đài gặp nhau.
1815Khôn trông mồng bảy đêm thu,
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao[29].
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau".

Nguyệt Nga chưa xiết nỗi sầu,
1820Xẩy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho mình".
Nguyệt Nga ngồi sợ làm thinh,
Trạng nguyên xuống ngựa tay xông lần vào.
1825Lão bà dậy hỏi người nao:
"Đêm khuya lạ mặt dám vào nhà ta?"
Rằng: "Tôi quốc trạng Sở gia,
"Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô-qua,

1830Vì theo dẹp giặc Ô-qua lạc đường".
Lão bà nghe nói kinh hoàng:
Tiêm trầu quật nước vội vàng bưng ra.
Trạng nguyên ngồi nhắm Nguyệt Nga,
Thoạt nhìn bức tượng lòng đà sinh nghi.
1835Hỏi rằng: "Tượng ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa tỏ sự tình,
Lão bà nói tính danh cho tường".
Lão bà chẳng dám nói gian:
1840"Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Trạng rằng: "Nàng xích lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga dạ hãy hồ nghi,
Liếc nhìn tòng mặt lại e lạ người.
1845Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Trạng nguyên xem thấy mỉm cười một khi.
"Làm sao nàng chẳng nói đi,
Mấy lời ta hỏi giống gì chẳng ra?"
Nguyệt Nga thấy hỏi thưa qua:
1850"Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đà về chốn cửu tuyền,
Thiếp vì thương nhớ lánh miền gió trăng".
Trạng nguyên khi ấy hỏi phăn:
"Chồng là tên ấy vợ tên chi?"
1855Nguyệt Nga tỏ sự một khi,
Trạng nguyên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng: "Nay gặp nàng đây,
Xin đưa bốn lạy sẽ bày nguồn cơn.
Mấy lời thệ hải minh sơn[30],
1860Mang ơn trước phải tạ ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt tên tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ hồi ước ao".
Nguyệt Nga bảng lảng bơ [31],
Nửa mừng nửa sợ nửa ngờ rằng Phiên.
1865Thưa rằng: "Chàng phải Vân Tiên.
Nói ra[32] lúc trước căn nguyên những là".
Trạng nguyên nói tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc hòa như mưa
Ân tình càng kể càng ưa,
1870Đương còn bàn bạc trời vừa sáng ra.
Xẩy nghe quân hét vang dời,
Bốn bề bờ bụi đều vầy can qua.
Trạng nguyên lên ngựa trở ra,
Ngọn cờ đề chữ tên là Hớn Minh.
1875Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Minh rằng: "Lương tẩu[33] ở đâu,
Cho em ra mắt chị dâu thế nào?"
Trạng nguyên đem Hớn Minh vào,
1880Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào quý viên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã tới miền Ô-qua.
Nay đà sum họp một nhà,
Giặc đà an giặc âu ca hồi triều".
1885Trạng rằng: "Nàng tính làm sao?"
Nàng rằng: "Anh hãy hồi triều tâu lên.
Ngỏ trông lượng rộng bề trên,
Xin tha tội trước mới nên những là".
Trạng nguyên từ tạ lão bà,
1890Dặn dò gửi lại Nguyệt Nga ngày rày:
"Ta thì lấy bức tượng này,
Tâu qua khỏi tội rước ngay về nhà".
Tiên Minh hai ngựa trở ra,
Đem binh trở lại triều ca một bề[34].
1895Sở Vương nghe trạng nguyên về,
Cho quan ra rước vào kề bên ngai.
Sở Vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
1900Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay trừ Cốt Đột xong,
Thực trời sinh trạng giúp trong nước nhà.
Ví dầu trước có trạng ra,
Làm chi đến nỗi Nguyệt Nga cống Hồ".
1905Lệnh truyền đãi yến triều đô,
Ăn mừng rày đã Tây Ô dẹp rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các chuyện đầu đuôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu căn nguyên,
1910Phán rằng: "Trẫm tưởng nàng còn ở Phiên.
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau thuở trước khóc duyên lúc đầu".
Thái sư trước bệ liền tâu:
"Tây-phiên dấy giặc bấy lâu[35] cũng vì
1915Trá hôn oán cựu còn ghi,
Nguyệt Nga nàng ấy tội khi đã đành".
Thái sư ôn tấu triều đình,
Nào căn nguyên trước sự tình những chi.

Trạng nguyên ra trước bệ quỳ,
Dâng lên bức tượng một khi làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng:
1920"Nguyệt Nga trinh tiết cũng bằng người xưa,
Ở đời sao chẳng biết lừa,
Thiếu chi con gái mà đưa tới nàng.
Dầu cho nhật nguyệt rõ ràng,
Khôn soi chậu úp[36] cũng mang tiếng đời.
1925Xuống trời ai dám cãi trời,
Việc này vì trẫm nghe lời Thái sư".
Trạng nguyên tấu sự Thái sư:
"Làm tôi chẳng đặng lại tư oán thầm.
Gia thêm nỗi gã Trịnh Hâm,
1930Trịnh Hâm thuở trước mưu thầm hại tôi[37].
Nay đà rõ mặt nịnh rồi,
Ngưỡng trông lượng thánh tài bồi thế nao?"

Sở Vương trần phán trong triều:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền[38] mà thôi.
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi,

Thái sư muốn tính lý nào ngày sau[39].
1935Hay là Đổng Trác mưu sâu[40],
Nuôi trông Lữ Bố phòng âu Hán quyền.
Hay là Nguyên Tải mưu riêng,
Nuôi thằng Tước Ngạn mong chuyên nhà Đường.
Hay là An Thạch thói gian,
Nuôi thằng Tần Biện phòng toan Tống triều.

Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư chỉn có khác nào Tào ôi.
Toan chuyên ngẫm ỷ ngôi trời,
1940Thấy người trung chính kiếm lời sàm pha.
Đến nay mới tỏ chính tà,
Cũng vì thuở trước tại ta lỗi dùng".
Thôi thôi ta cũng rộng dung:
"Thái sư cách chức về cùng dân gian.
1945Trịnh Hâm là trẻ bạo tàn,
Giao cho quốc trạng mặc toan phép hình.
Nguyệt Nga là gái trung trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh cho nàng.
Kiều công phục chức Thái-khanh,
1950Lại phong tuần phủ Đông-thành trị dân.
Trạng nguyên thực đấng lương thần,
Sắc phong Tướng quốc trước hàng công khanh".

Hớn Minh phong chức tổng binh,
Anh em mừng tạ đan đình đều lui.
1955Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng rằng: "Xin hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội trước các người tính sao?"
Tả đao dẫn Trịnh Hâm vào,
1960Mặt nhìn thấy bạn miệng chào rằng anh.
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
Trước đà đem thói chẳng lành thì thôi.
Dẫn ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt khó ngồi cẩm gan".
1965Trực rằng: "Anh chớ nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi.
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dầu cho sống làm gì thành thân?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng đại nhân,
1970Vốn tôi mới dại một lần xin dung".
Trạng rằng: "Ta đấng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở cửa đuổi đi cho rồi".
1975Trịnh Hâm khỏi chết mừng vui,
Vội vàng quỳ lạy xin lui ra về.
Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Hổ ngươi cáo bệnh xin về kẻo lâu.
Hớn Minh Tử Trực vào tâu,
1980Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng đà thẹn cũng vì hổ thay.
Trạng nguyên xa giá vội vàng,
Sai quân hộ vệ rước nàng Nguyệt Nga.
1985Bạc vàng đem tạ lão bà,
Rước nàng đưa tới thẳng qua Đông-thành.
Võng điều lộng đỏ rèm xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đường.
Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,
1990Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm phải cá nuốt thây,
Thực trời quả báo lẽ này rất mau.
Làm người chẳng nghĩ trước sau[41],
Mưu sâu lại mắc họa sâu chẳng chầy.
1995Tiểu đồng trước giữ mộ này.
Ngày qua tháng chọn đã đầy ba năm.
Tôi đi khuyên giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm chủ nhà.
Hiềm vì chẳng có người ta,
2000Hãy còn thơ thẩn vào ra chưa về.
Trạng nguyên vừa tới Đại-đề,
Truyền quân che lộng tế hề đồng xưa:
"Tưởng tình sư đệ quá ưa,
Cũng vì họ Trịnh thuở xưa mưu thầm?"
2005Đọc văn phối động trong lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Xẩy đâu trời đất khéo đưa,
Tiểu đồng chạy tới đứng vừa một bên.
Ngó vào bài vị thấy tên,
2010Trạnh lòng đồng mới[42] khóc lên bấy giờ.
Trạng nguyên ngó lại thờ ơ,
Nửa tin rằng tớ nửa ngờ rằng ma.
Tay lau nước mắt bước ra,
"Tiểu đồng con ở đâu mà tới đây?"
2015Thì con há nói cùng thầy,
"Căn do chưa rõ cớ này làm sao?"
Tiểu đồng đặt gối tâu vào,
Bấy lâu luống chịu âm hao rãi rầu[43].
Bài lời tự sự đuôi đầu[44],
2020Ba năm luống chịu thảm sầu tới nay.
Bây giờ tớ đã gặp thầy,
Vinh hoa một thuở xum [?] cơn mầu.
Trạng nguyên xa giá rẽ lên,
Phút đâu[45] đã tới gần miền Tần-giang.
2025Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đau sầu.
Mẹ con những mảng lo âu;
"Nghe Vân Tiên sống gặp triều công danh.
Rằng ta xưa cũng ân tình,
2030Phải ra đón rước chàng vinh quy rày".
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng: "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thì chàng ắt ưa.
2035Ví dầu có nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh sáp má hồng[46] rước duyên.
Nay đà tới lúc trạng nguyên,
2040Hàn-giang về tới xẩy liền đóng quân.
Bạc vàng châu ngọc áo quần,
Trạng nguyên đem tới đền ơn ngư tiều,
Ngư tiều rày đã danh tiêu[47],
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
2045Trạng nguyên từ tạ ra về,
Thấy Quỳnh Trang tới ngồi kề tróc quân.
Thể Loan trước giá khâm truyền,
Mẹ con tôi tới ra hầu trạng nguyên.
Phụ thân đã xuống hoàng tuyền,
2050Xin thương lấy thiếp thuyền quyên phận này".
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy.
Đổ ngay xuống đất hốt rày cho xong.
Oan gia nợ trước lỡ xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi[48]".
2055Hớn Minh Tử Trực đều coi,
Nực cười: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Vâng cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt tới biểu bòng làm chi?
Minh rằng: "Sao chẳng đi[49],
2060Về cho tẩu tẩu tha khi xách giày".
Mẹ con đứng thì xuân thay,
Đều bèn từ tạ thưa rày bước ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai ông cọp chạy ra đón đường.
2065Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem về lại bỏ trong hang Thương-tùng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông đứng ngồi.
Đời xưa lỡ nỡ mấy hồi,
2070Tiếc thay son phấn điểm mùi bấy lâu.
Hỡi người làm vợ người sau,
Gặp khi hoạn nạn cùng nhau vuông tròn.
Đừng còn bắt chước mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.

*

* *


2075Trạng nguyên về tới Đông-thành
Lục công nay đã xây dinh ở làng.
Bày ra lục lễ[50] sẵn sàng,
Các quan đi hộ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
2080Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm thùy rạng tinh thần,
Sinh con được nối gót lân[51] đời đời.
Hiềm vì cách trở đôi nơi,
Nên chi phải tả vài lời ngâm nga.
Để mà chờ đãi nho gia,
Phải tu tiết hạnh mới ra lịch người.
Đành còn bày nghĩ sự đời,
Căn do từ ấy hỏi trời mà thôi.

   




Chú thích

  1. Ra đời: ra hoạt động, giúp đời
  2. Quy y: đi tu
  3. Hẩm hút tương rau: cảnh nghèo
  4. Minh sinh: mảnh lụa, vải hay giấy dài ghi tên họ, chức tước người chết để cúng
  5. Người ta có tổ tiên cha mẹ như nước có nguồn cây có gốc
  6. Chín trăng: chín tháng (mẹ mang thai con chín tháng)
  7. Nằm giá: nằm trên băng giá. Sổ Liêu xưa nằm trên băng để băng tan, bắt được cá chép về cho mẹ ăn chữa bệnh. Khóc măng: Mạnh Tông thương mẹ vốn thích ăn măng. Mùa đông ông vào rừng kiếm măng không được, ôm trúc mà khóc, tự nhiên măng mọc
  8. Nhị thập tứ hiếu: 24 gương hiếu xưa
  9. Ra bề: ra bề thế
  10. Biếm quyền: giáng chức quan
  11. Hồ phương Bắc, Việt phương Nam
  12. Chia bâu: chia li
  13. Kiều công mong cho Nguyệt Nga sẽ thành gia thất và sinh được con hay
  14. Kinh sư: kinh đô
  15. Khôi khoa: đỗ đầu (trạng nguyên)
  16. Chỉ: lệnh vua. Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước. Dẹp loàn: dẹp loạn
  17. Đề binh: đem binh đi đánh giặc
  18. Bình di: dẹp giặc
  19. Tương hội: cùng hội họp với nhau
  20. Một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm làm mọi người phấn khởi
  21. Tiên phong: quân xông trận mặt trước. Hậu tập: quân đánh bọc mặt sau
  22. Bình tặc: dẹp yên giặc
  23. Binh đáo quan thành: quân đến trước cửa thành
  24. Ra quân, chống trả
  25. Dường lôi: như sấm sét đánh
  26. Siêu: binh khí có lưỡi dài. Ngựa ô: ngựa lông đen
  27. Không quản hiểm nghèo
  28. Tam canh: canh ba
  29. Nguyệt Nga không mong gặp được Vân Tiên như Chức Nữ gặp Ngưu Lang
  30. Thề bể hẹn non, bền chặt
  31. Bảng lảng bơ lơ: kinh ngạc ngẩn người
  32. Khúc nôi: nỗi niềm, sự tình
  33. Tẩu tẩu: chị dâu
  34. Triều ca: buổi thiết triều. Đề huề: dắt tay nhau cùng đi
  35. Qua mâu: binh khí thời xưa
  36. Chậu úp: nói nơi tối tăm, ánh sáng không lọt tới, trong ngoài không thông nhau, ví nỗi oan không cách giải tỏ
  37. Ghê phen: nhiều phen
  38. Tướng ngỏ tôi hiền: khanh tướng và bầy tôi hiền
  39. Chín trùng: vua
  40. Đổng công: tức Đổng Trác
  41. Ý nói thản nhiên như không
  42. Bài vị: miếng gỗ hay mảnh giấy cứng, mặt có ghi tên người chết để thờ
  43. Các thứ lớp từ trước đến nay
  44. Chỉ Vân Tiên
  45. Tuần dư: hơn mười ngày
  46. Phòng: hóng chờ
  47. Biêu: nêu lên cho mọi người biết
  48. Ý câu: Vân Tiên bị xem là kẻ oán thù với nhà Thể Loan, thì Vân Tiên đã bị nhà Thể Loan hãm hại, tức là Vân Tiên trả xong nợ rồi
  49. Ca ca: anh. Chịu đi: ưng thuận đi
  50. Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới hỏi thời xưa
  51. Gót lân: chỉ con cháu có tài đức