Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển/Chương IIa

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển
của Chính phủ Thụy Điển, do Cục Bản quyền tác giả dịch
Chương IIa: Quyền thù lao đặc biệt

Thù lao đối với việc bán lại các bản sao tác phẩm nghệ thuật

Điều 26j.[sửa]

Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật đã được chuyển giao được thương nhân bán lại trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả khi người này thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, tác giả có quyền nhận tiền thù lao từ người bán. Tác giả cũng có quyền nhận tiền thù lao trong trong các trường hợp khác, khi mà việc buôn bán do thương nhân thực hiện trong phạm vi hoạt động kinh doanh của họ. Trong trường hợp này tiền thù lao sẽ do thương nhân đó trả. Tiền thù lao là 5% giá bán buôn không tính thuế giá trị gia tăng.

Tuy nhiên, tác giả sẽ không có quyền nhận tiền thù lao

1. Khi giá bán lại, không tính thuế giá trị gia tăng, không vượt quá một phần 20 tổng số theo Luật Bảo hiểm (1961:381),

2. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật là bản sao của tác phẩm kiến trúc, hoặc

3. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đã được sản xuất với một số lượng bản sao giống hệt nhau.

Quyền nhận thù lao mang tính cá nhân và không thể chuyển giao. Tuy nhiên, không phụ thuộc những quy định của Chương 10, Điều 3, Luật Hôn nhân, những quy định về phân chia tài sản giữa vợ chồng, về thừa kế sẽ áp dụng đối với quyền nhận thù lao sau khi tác giả chết.

Chỉ tổ chức đại diện cho phần lớn các tác giả Thuỵ Điển trong lĩnh vực có liên quan mới có quyền yêu cầu tiền thù lao. Tổ chức yêu cầu tiền thù lao và trả cho người hưởng quyền sau khi đã trừ đi một khoản quản lý phí của tổ chức, Nếu tổ chức không yêu cầu người có trách nhiệm trả tiền tiền thù lao trong thời hạn 3 năm kể từ khi kết thúc năm việc bán được thực hiện thì yêu cầu bị hết hiệu lực.

Theo yêu cầu của tổ chức, người có trách nhiệm trả tiền thù lao phải cung cấp các chi tiết về việc bán đã thực hiện trong vòng 3 năm trước đó để làm căn cứ tính tiền thù lao.

Tiền thù lao đối với việc sản xuất và nhập khẩu các nguyên vật liệu để ghi âm ghi hình.

Điều 26k.[sửa]

Khi một doanh nghiệp, trong phạm vi hoạt động nghề nghiệp của mình, sản xuất hoặc nhập khẩu các nguyên vật liệu để ghi âm, ghi hình và đặc biệt là phù hợp cho việc làm bản sao sử dụng vì mục đích cá nhân thì các tác giả có tác phẩm được bảo hộ đã được xuất bản trên các nguyên vật liệu có thể bị sao chép, có quyền nhận thù lao từ doanh nghiệp đó.

Tuy nhiên, tác giả không có quyền nhận thù lao nếu việc sản xuất hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm

1. sử dụng cho các mục đích không phải là làm bản sao để sử dụng cá nhân,

2. xuất khẩu, hoặc

3. sử dụng làm bản sao cho những người khiếm thính hoặc khiếm thị.

Tiền thù lao là 2 "Ores" cho mỗi phút có thể ghi, nhưng không quá 6 Cua – ron cho mỗi nguyên vật liệt. Chỉ tổ chức đại diện cho phần lớn các tác giả và người có quyền liên quan Thuỵ Điển trong các lĩnh vực có liên quan mới có quyền yêu cầu đối với tiền thù lao. Tổ chức sẽ yêu cầu tiền thù lao và phân chia tiền này cho những người có quyền sau khi đã trừ đi một khoản phí hợp lý. Khi phân chia tiền thì những người có quyền nhưng không dược đại diện bởi tổ chức sẽ được đối xử ngang bằng với những người có quyền được đại diện bởi tổ chức.

Doanh nghiệp gửi thông báo đến tổ chức như được nêu trong đoạn 3. Theo yêu cầu của tổ chức, doanh nghiệp gửi số liệu về các nguyên vật liệu thuộc đối tượng trả thù lao, thời gian ghi của nguyên vật liệu và các trường hợp nguyên vật liệu được sản xuất hoặc nhập khẩu. Số liệu chỉ ra số lượng nguyên vật liệu nêu tại đoạn 2.