Luật Tổ chức Toà án nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1981 (sửa đổi, bổ sung 1988)

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Luật sửa đổi bổ sung Luật Tổ chức Toà án nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  (1988) 
của Quốc hội Việt Nam
Loại Từ Ngày hiệu lực Thay thế cho Sửa đổi bởi Bản mới hơn Hiệu lực
Hợp nhất Luật 1981
Sửa đổi 1988
6/1/1989 Luật 1981 Luật 1992 Hết

Căn cứ vào Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 3-7-1981.

Chương I: Những quy định chung[sửa]

Điều 1[sửa]

Các Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Toà án nhân dân xét xử những vụ án hình sự, những vụ án dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, và những việc khác do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân.

Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Bằng hoạt động của mình, Toà án nhân dân góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, kỷ luật lao động, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, phòng ngừa và chống các tội phạm và các việc làm vi phạm pháp luật, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Điều 2[sửa]

Các Toà án nhân dân gồm có:

Toà án nhân dân tối cao;

Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương;

Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

Các Toà án quân sự.

Trong tình hình đặc biệt hoặc trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.

Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy định của pháp luật.

Tổ chức của các Toà án quân sự do Hội đồng Nhà nước quy định.

Điều 3[sửa]

Chế độ bầu cử thẩm phán được thực hiện ở Toà án nhân dân các cấp.

Chánh án, Phó Chánh án và thẩm phán của mỗi Toà án nhân dân do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi miễn.

Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình.

Điều 4[sửa]

Việc xét xử ở Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.

Hội thẩm nhân dân của mỗi Toà án nhân dân do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi miễn.

Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi. Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân các Toà án nhân dân địa phương là hai năm.

Điều 5[sửa]

Toà án nhân dân xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần xã hội và địa vị xã hội.

Điều 6[sửa]

Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Điều 7[sửa]

Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.

Thành phần hội đồng xét xử ở mỗi cấp do pháp luật về thủ tục xét xử quy định.

Điều 8[sửa]

Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt mà Toà án nhân dân xét thấy cần xử kín để giữ gìn bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội.

Điều 9[sửa]

Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.

Bị cáo có quyền tự bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Trong những trường hợp do pháp luật quy định, Toà án nhân dân phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo.

Các đương sự khác có quyền tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Điều 10[sửa]

Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Toà án.

Điều 11[sửa]

Bị cáo và các đương sự khác có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị, theo quy định của pháp luật, đối với những bản án và quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân.

Bản án và quyết định phúc thẩm là chung thẩm.

Điều 12[sửa]

Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu thấy có vi phạm pháp luật, hoặc được xét lại theo thủ tục tái thẩm, nếu phát hiện những tình tiết mới.

Điều 13[sửa]

Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng.

Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan Công an, các trại giam, các chấp hành viên và các cơ quan hữu quan khác phải nghiêm chỉnh chấp hành những bản án, những quyết định của Toà án nhân dân, và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ đó.

Bản án tử hình được thi hành nếu không có kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong trường hợp người bị án xin ân giảm án tử hình thì bản án được thi hành sau khi Hội đồng Nhà nước bác đơn xin ân giảm.

Điều 14[sửa]

Cùng với việc ra bản án, Toà án ra quyết định yêu cầu cơ quan hoặc tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại các cơ quan, tổ chức đó. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Toà án, cơ quan, tổ chức đó phải báo cho Toà án biết những biện pháp được áp dụng.

Điều 15[sửa]

Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trước Toà án nhân dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của công dân, khởi tố vụ án dân sự trong những trường hợp cần thiết, tham gia tố tụng tại phiên toà và kháng nghị, theo quy định của pháp luật, đối với những bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân.

Điều 16[sửa]

Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó.

Điều 17[sửa]

Toà án nhân dân dựa vào các tổ chức xã hội để phát huy tác dụng giáo dục của phiên toà và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chấp hành những bản án và quyết định của Toà án nhân dân.

Điều 18[sửa]

Toà án nhân dân cùng với Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan Công an, Thanh tra, Tư pháp và các cơ quan hữu quan khác nghiên cứu và thực hiện những chủ trương, biện pháp nhằm phòng ngừa và chống các tội phạm và các việc làm vi phạm pháp luật.

Điều 19[sửa]

Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.

Các Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Chương II: nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức của tòa án nhân dân các cấp tòa án nhân dân tối cao[sửa]

Điều 20[sửa]

Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử, giám đốc việc xét xử của các toà án đó và tổng kết kinh nghiệm xét xử.

Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt, trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước quy định khác khi thành lập các Toà án đó.

Toà án nhân dân tối cao trình Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước những dự án luật, dự án pháp lệnh về công tác xét xử.

Điều 21[sửa]

Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền:

1/ Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp;

2/ Phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương;

3/ Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương.

Điều 22[sửa]

Toà án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó chánh án, các thẩm phán và các hội thẩm nhân dân.

Tổ chức Toà án nhân dân tối cao gồm có:

Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

Toà hình sự, Toà dân sự, Toà án quân sự cấp cao, các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng Nhà nước có thể thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Bộ máy giúp việc của Toà án nhân dân tối cao.

Điều 23[sửa]

Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là tổ chức hướng dẫn công tác xét xử của Toà án nhân dân các cấp, đồng thời là tổ chức xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.

Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là:

1/ Hướng dẫn công tác xét xử của Toà án nhân dân các cấp;

2/ Tổng kết kinh nghiệm xét xử;

3/ Nhận xét báo cáo của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về công tác xét xử của Toà án nhân dân các cấp;

4/ Thông qua những dự án luật, dự án pháp lệnh trước khi Toà án nhân dân tối cao trình Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước;

5/ Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Điều 24[sửa]

Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao gồm có: Chánh án, các Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao; các Chánh toà, Phó chánh toà các Toà thuộc Toà án nhân dân tối cao; các thẩm phán Toà hình sự, Toà dân sự và một số thẩm phán Toà án quân sự cấp cao do Chánh án Toà án nhân dân tối cao cử.

Các cuộc họp của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thảo luận việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp tham gia.

Quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên tán thành.

Điều 25[sửa]

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là tổ chức thường trực của Hội động thẩm phán, đồng thời là tổ chức xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.

Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là:

1/ Chỉ đạo Toà án nhân dân các cấp áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử và thực hiện những nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

2/ Thông qua báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao trình Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước;

3/ Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bán án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà thuộc Toà án nhân dân tối cao;

4/ Quyết định việc triệu tập các kỳ họp của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Điều 26[sửa]

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao gồm có: Chánh án, các Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao, các Chánh toà các Toà thuộc Toà án nhân dân tối cao.

Các cuộc họp của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thảo luận việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp tham gia.

Quyết định của Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên tán thành.

Điều 27[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của Toà hình sự, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao là:

1/ Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao;

2/ Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương.

Toà hình sự, Toà dân sự có Chánh toà, Phó chánh toà và các thẩm phán

Điều 27b[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của Toà án quân sự cấp cao là:

1/ Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, những vụ án mà bị cáo là thiếu tướng hoặc là người có chức vụ từ chỉ huy trưởng sư đoàn, cục trưởng và cấp tương đương trở lên, những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự quân khu và cấp tương đương nhưng Toà án quân sự cấp cao lấy lên để xét xử;

2/ Phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các Toà án quân sự quân khu và cấp tương đương;

3/ Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự quân khu và cấp tương đương;

4/ Giám đốc việc xét xử của các Toà quân sự cấp dưới;

Toà án quân sự cấp cao có Chánh án, các Phó chánh án, các thẩm phán và các hội thẩm quân nhân

Điều 28[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương.

Các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có Chánh toà, Phó Chánh toà và các thẩm phán.

Điều 29[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là:

1/ Tổ chức hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tối cao;

2/ Chủ toạ các cuộc họp của Hội đồng thẩm phán và của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

3/ Chủ toạ phiên toà của Toà hình sự, Toà dân sự và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao, khi xét thấy cần thiết;

4/ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân các cấp; có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị;

5/ Trình Hội đồng Nhà nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị án xin ân giảm án tử hình;

6/ Cử các Chánh toà và Phó chánh toà của các Toà thuộc Toà án nhân dân tối cao; phân công các thẩm phán;

7/ Quy định tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và trình Hội đồng Nhà nước phê chuẩn; quản lý tổ chức, bổ nhiệm và quản lý cán bộ của Toà án nhân dân tối cao;

8/ Báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.

Điều 30[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của các Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao là:

1/ Giúp Chánh án làm nhiệm vụ;

2/ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp dưới; có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị.

Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố

Trực thuộc trung ương và cấp tương đương

Điều 31[sửa]

Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương có thẩm quyền:

1/ Sơ thẩm những vụ án không thuộc thẩm quyền của các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và những vụ án thuộc thẩm quyền của các Toà án đó, nhưng Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương lấy lên để xét xử;

2/ Phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

3/ Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Điều 32[sửa]

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương có Chánh án, các Phó chánh án, các thẩm phán và các hội thẩm nhân dân.

Tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương gồm có:

Uỷ ban thẩm phán;

Toà hình sự, Toà dân sự;

Bộ máy giúp việc.

Điều 33[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương là:

1/ Bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử tại các Toà án nhân dân ở địa phương;

2/ Tổng kết kinh nghiệm xét xử;

3/ Thông qua báo cáo công tác của Toà án trình Hội đồng nhân dân cùng cấp;

4/ Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Uỷ ban thẩm phán gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, các Chánh toà và Phó Chánh toà các Toà chuyên trách.

Quyết định của Uỷ ban thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên tán thành.

Điều 34[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của Toà hình sự, Toà dân sự Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương là:

1/ Sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương;

2/ Phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Toà hình sự, Toà dân sự có Chánh toà, Phó chánh toà và các thẩm phán.

Điều 35[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương là:

1/ Tổ chức hoạt động xét xử và thi hành án của Toà án;

2/ Chủ toạ các cuộc họp của Uỷ ban thẩm phán;

3/ Chủ toạ phiên toà, khi xét thấy cần thiết;

4/ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân cấp dưới; có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị;

5/ Cử Chánh toà và Phó chánh toà Toà hình sự, Toà dân sự;

6/ Báo cáo công tác của Toà án trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và với Toà án nhân dân cấp trên.

Các Phó chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ.

Điều 36[sửa]

Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền:

1/ Sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự;

2/ Sơ thẩm những vụ án dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình và những vụ án khác do pháp luật quy định, trừ những việc mà đương sự là người nước ngoài hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài;

Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai Phó chánh án, các thẩm phán và các hội thẩm nhân dân.

Điều 37[sửa]

Nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án Toà án nhân dân huyện, quận,

Thị xã, thành phố thuộc tỉnh là:

1/ Tổ chức hoạt động xét xử và thi hành án của Toà án;

2/ Chủ toạ phiên toà hoặc phân công các thẩm phán chủ toạ phiên toà;

3/ Báo cáo công tác của Toà án trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và với Toà án nhân dân cấp trên.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ.

Thư ký, chuyên viên và chấp hành viên của Toà án nhân dân.

Điều 38[sửa]

Các Toà án nhân dân có các thư ký Toà án, và tuỳ theo yêu cầu công tác, có các chuyên viên pháp lý giúp việc.

Các Toà án nhân dân địa phương có các chấp hành viên.

Điều 39[sửa]

Cơ quan công an có nhiệm vụ áp giải bị cáo, bảo vệ các phiên toà hình sự và theo yêu cầu của Toà án nhân dân, bảo vệ các phiên toà dân sự.

Chương III: Thẩm phán và hội thẩm nhân dân[sửa]

Điều 40[sửa]

Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có kiến thức pháp lý cần thiết, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì có thể được bầu làm thẩm phán Toà án nhân dân.

Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có quan hệ tốt với nhân dân, thì có thể được bầu làm hội thẩm nhân dân.

Điều 41[sửa]

Số thẩm phán và hội thẩm nhân dân của toà án nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước quy định, theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Số thẩm phán của các Toà án nhân dân địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định, sau khi thoả thuận với Chánh án toà án nhân dân tối cao.

Số hội thẩm nhân dân của mỗi Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân địa phương quy định theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp.

Điều 42[sửa]

Chánh án toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, theo sự giới thiệu chung của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và các trưởng đoàn đại biểu Quốc hội, sau khi hỏi ý kiến các đoàn đại biểu.

Các Phó Chánh án và thẩm phán toà án nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước cử theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.

Các hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước cử theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Điều 43[sửa]

Chánh án, các Phó Chánh án và thẩm phán toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của chủ toạ kỳ họp Hội đồng nhân dân.

Các hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương.

Điều 44[sửa]

Các hội thẩm nhân dân có nhiệm vụ tham gia công tác xét xử của toà án nhân dân.

Các cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã và đoàn thể nhân dân có người được bầu làm hội thẩm nhân dân phải tạo điều kiện cho hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ tại Toà án.

Các hội thẩm nhân dân được bồi dưỡng về nghiệp vụ và được hưởng phụ cấp khi tham gia công tác xét xử.

Điều 45[sửa]

Biên chế của Toà án nhân dân tối cao do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quy định và trình Hội đồng Nhà nước phê chuẩn.

Tổng số biên chế của các Toà án nhân dân địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Hội đồng bộ trưởng quyết định.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định biên chế cho từng Toà án nhân dân địa phương.

Chương IV:Diều khoản cuối cùng[sửa]

Điều 46[sửa]

Luật này thay thế các văn bản pháp luật đã ban hành trước đây về tổ chức Toà án nhân dân.


Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 22 tháng 12 năm 1988.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".