Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Mở đầu

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

NAM-KỲ PHONG TỤC NHƠN VẬT DIỄN CA

Hây hây cảnh tượng trời xuân, Thái hòa vỏ trụ nhơn dân lạc tình.
Bút nghiên giỏi dấu gia đình, Diễn ca phong tục lời mình đặt ra.
Già quê giọng nói thiệt thà, Giải khuây may cũng một và trống canh.
Nam-kỳ cảnh rất lịch thanh, Đường sông dặn dịch đất hình lăng xăng.
Đông nam hai phía địa phần, Giáp ra nam hải chẳng gần chẳng xa.
Tây giáp vịnh biễn Xiêm-la, Đông bắc Bình-thuận ấy là giáp ranh.
Phía bắc cả ngàn rừng xanh, Giáp Mên với Mọi tắc quanh nẻo đường.
Vịnh Xiêm ngoài phía đông phương, Hòn-tràm có đặt sở Thương-chánh-tòa.
Chỗ là giáp cõi Xiêm-la, Quan quân dinh dảy cữa nhà vẻn van.
Cổ-rồng hòn rất khô khan, Núi giăng lúm khúm cả ngàn cây dương.
Dân nghèo bãi biễn một phương, Làm ăn nơi đó quen đường ra vô.
Hãi sâm, mắm ruốt, mực khô, Đầu mồi, sứa muối, là đồ trời sanh.
Vủng-thơm vịnh lớn minh minh, Khỏi nơi Hòn-ráng tới quanh Hòn-nần.
Ngang qua Cần-vọt địa phần, Ngoài thời Phú-quấc cũng gần đâu xa.
Một lèo qua mũi Gành-bà, Rồi liền ngó thấy cữa là Hà-tiên.
Hòn-chông Hòn-đất liền liền, Hòn-tre Hòn-ráy ấy miền Kiên-giang.
Cữa biễn ông Đốc ngó ngang, Thời thấy Hòn-chuối một hàng tâm tâm.
Hòn-khoai giữa biễn khơi nằm, Mối đường hãi đạo chỗ nhằm yếu xung.
Bấy lâu hao phí nhơn công, Tháp xây đèn vọi vừa xong mới rồi.
Mi-Sên (Michel) cần cáng vô hồi, Đốc-công mấy tháng tài bồi lực đa.
Tàu ghe tâm tối vào ra, Nhắm chừng làm chắc khỏi sa lố cồn.
Hòn-khoai là chỗ thon von, Mũi nước chãy mạnh bon bon vận đào.
Trên hòn suối chảy rao rao, Nước trong ngọt tợ mưa dào thu thiên.
Dân ra chuyên chở liền liền, Cà-mau uống nước nhờ miền Hòn-khoai.
Cữa-lớn Vàm-nho ra hoài, Gành-hàu qua khỏi mé dài Mỹ-thanh.
Ngó ra ngoài biễn minh minh, Mù mù trời nước thấy hình Côn-nôn.
Cao-hoàng thuở trước viễn bôn, Bị ngươi Nguyễn-Huệ thói chồn manh tâm.
Xãy đâu mưa gió ầm ầm, Cù phong tật khởi loạn trầm tặc châu.
Khen cho máy tạo cơ cầu, Chuyện trăm năm đã cách lâu bao giờ.
Nay còn non nước sờ sờ, Dấu xưa hãy để cỏi bờ một phương.
Ước hai muôn thước bề trường, Hoành năm ngàn thước tịch thường ngàn dân.
Lớp thời chài lưới làm ăn, Lớp thời trồng rẩy ngày lần tháng qua.
Quan quân dinh dảy mấy tòa, Ngục-đường điển xá đều là oai nghi.
Tàu đò tháng ghé hai kỳ, Xúp lê (souffler) hiệu lịnh vậy thì thỗi vang.
Nam-kỳ tù phạm hơn ngàn, Đày ra ở đó khốn nàn xiết đâu.
Xưa nay thiện ác đáo đầu, Mình làm mình chịu ai hầu chịu cho.
Nhìn xem hình ảnh đơn cô, Vọi cao bóng thỏ bóng ô bời bời.

Nhìn xem cá nước chim trời, Xa xuôi xứ sở ngậm nguồi vợ con.
Khi sao vật lạ món ngon, Chừ sao múi cục cơm hòn thế ni.
Khi sao viển tẩu cao phi, Chừ sao ly tiết một khi dập dồn.
Minh mông kìa vực nọ cồn, Nát gan cố quấc lạnh hồn tha hương.
Nặng nề công chuyện thãm thương, Trông ra Bãi-cạnh đêm trường vọng đăng.
Năm canh trằng trọc xăng văng, Sáng rồi linh láng biển giăng chưn trời.
Làm người cẩn thận ở đời, Chớ lờn phép nước thảnh thơi hoài hoài.
Dữ giằng thì phải mang tai, Trong vòng khỗ sở kêu nài với đâu.
Khuyên cùng ai nấy lo âu, Cứ trong bỗn phận nhớ câu nhơn nghì.
Dẩu mà gặp lúc hiểm nguy, Cũng đừng đỗi dạ phi vi lằng xằng.
Thiệt thà chắc chắn làm ăn, Hết cơn bĩ cực tới chừng thới lai.
Giữ gìn nghệ nghiệp sanh nhai, Xưa nay họa phước chẳng sai với mình.
Thẳng qua mấy độ thủy trình, Khỏi nơi Ba-động lại gành Băng-cung.
Ba-lai cữa sóng điệp trùng, Đại, Tiểu, cạng cùng ngoài có vọng đăng.
Đi đêm nhắm đó làm bằng, Khỏi nơi Lôi-rạp tới chừng Đồng-tranh.
Cần-giờ cữa biển có danh, Yết hầu cứ hiểm trời dành sẳng cho.
Gió xuôi buờm thả cánh cò, Ra ngoài Cữa-lấp tới đò Xích-ram.
Địa đầu giáp giái phủ Hàm, Nơi Cù-mi xứ có làm trạm canh.
Sông thời bốn cái có danh, Đã sâu mà rộng và xanh trong thường.
Phía Đông ba tĩnh các đường, Sông đường Vàm-cỏ sông đường Đồng-nai.
Phía tây ba tỉnh rộng dài, Hai ngả trong ngoài Tiền, Hậu, nhị giang.
Vàm-cỏ nguồn ở Mên mang, Chia làm đôi dải dọc ngang rỏ ràng.
Một dải Tây-ninh, Trảng-bàn, Kêu sông Bến-lức Thuận-an ấy là.
Một giải kêu sông Hưng-hòa, Vủng-gù vậy mà qua thấu Bắc-chiên.
Gội nhuần hai ngọn dòng quyên, Chảy xuống Lôi-rạp thông liên mọi đàng.
Đồng-nai nguồn Mọi cao sang, Chảy xuống hai hàng, hàng Đại, hàng Sâm.
Kề bên có miễu lâu năm, Tên miễu Thượng-đẳng u thâm linh kỳ.
Nghề rừng những kẻ ra đi, Xuống lên vái cúng đều thì sợ ghê.
Đường-sứ chảy xuống một bề, Hiệp với Nhà-bè sông gọi Phước-long.
Nhập với Tân-bình một sông, Tân-bình nguồn gốc trên giồng Mên hoan.
Chảy xuống các ngả nhẫy tràng, Cái-cùng, Dầu-một với đàng Lái-thiêu.
Thủ-đức, Đồng-cháy, nhẩy đều, Lên xuống dập dều đông đảo tàu ghe.
Hiệp với Đồng-nai, Nhà-bè, Chảy ra Cần-hải một bề phăng phăng.
Sông-sau, Sông-trước nguồn căng, Gốctrên Lèo-thượng sông rằngCửu-long.
Tiếng Mên kêu chử Mê-công (Mékong), Bên núi Tây-tạng chảy rông sang Mường.
Chảy xuống Nam-vang một đường, Chìa làm ba ngả nước thường ra vô.
Một ngả vào thấu Biển-hồ, Dân nhờ mùa hạng cá khô muôn vàng.
Một ngả kêu là Hậu-giang, Chảy về Châu-đốc nẻo đàng liêng liêng.
Luôn xuống Vàm-tấn, Ba-xuyên, Phân ra các dải lưởng biên bộn bàn.
Một ngả kêu là Tiền-giang, Cái-vừng chảy xuống liền sang Long-hồ.
Rồi liền luôn xuống Mỷ-tho, Chảy luôn ra biển quanh co rạch ngòi.
Biết bao xuống vịnh lên doi, Đường chuyên ngả chở hẳn hòi dể duôi.

Thạnh suy tiêu trưởng mấy hồi, Nơi bằng nơi lở chổ bồi chổ chinh.
Sơn-xuyên tú khí chung linh, Kể trong sáu tỉnh chổ danh hảy nhiều.
Thổ nghi tập tục biết nhiêu, Nói sơ đại lược ít đều ra sau.
Đổi thay mấy độ biển dâu, Gẩm cơ tạo hóa nhiệm mầu chỉnh ghê.
Minh-vương chúa Nguyễn trào Lê, Đất Mên chiếm cứ đem về bản thơ.
Lần lần thâu choán cỏi bờ, Nam-kỳ sáu tỉnh thành cơ nghiệp mình.
Lòng dân chánh nước chưa bình, Trời xuôi Đại-pháp điều đình phong cương.
Kinh dinh bốn chục năm trường, Tỉnh, thành, phủ, huyện, đo lường chia ra.
Hai mươi hai hạt gần xa, Cầu, đường sấp đặt công đà nhọc siêng.
Dây thép thủy bộ liền liền, Tàu đò xe lửa chở chuyên nhẩy tràng.
Càng ngày mỗi việc mở mang, Cho dân khẩn phá đất hoan muôn trùng.
Nơi nơi sầm huấc rộng thông, Cọp voi thú dử hải hùng lánh xa.
Tàu ô gành bải vô ra, Nhiểu nhương ghe cộ cũng là lắm khi.
Nghe đâu bắt đặng tức thì, Đã đôi ba chiếc trốn đi ngã nào,
Sợ oai chúng nó bôn đào, Mấy năm nay đã ba đào yến thanh.
Dưới sông bặc dấu côn kình, Trên bờ vui thú thích tình làm ăn.
Sum vầy các sắc nhơn dân, Sanh nhai nghệ nghiệp bỗn căng vững vàng.
Toàn-quyền-tổng-thống ngôi sang, Đông-dương mối việc ngỗn ngang tay dùng.
Bình-thuận thành, đến Thăng-long, Nước nhà bảo hộ ngoài trong an nhàn.
Đại-nam-việc quấc vững vàng, Vua là Thành-Thái hiệu Hoàng-đế nay.
Nguyển trào công đức nặng dày, Từ Gia-Long trước những ngày trung hưng.
Cậy nhờ sáu tỉnh binh dân, Dựng nên Đế nghiệp tân cần lưu lai.
Ấy là bờ cỏi phía ngoài, Còn vua Chơn-Lạp rộng dài phía trong.
Trị vì bốn chục dư đông, Rô-Đôm (Norodom) danh hiệu chính trùng vui chơi.
Ơn nhờ bảo hộ nơi nơi, Nước Mên toàn cảnh thảnh thơi xa gần.
Tên ngoài tục gọi Hoàng-lân, Giáp-thìn ngài đã giá băng mới rồi.
Ông Hoàng-nhì nối lên ngôi, Sửa sang sắp đặt các tôi Triều-đình.
Xi xa tha (Sisatha) ấy là danh, Noi theo qui củ thái bình dấu xưa.
Nam-vang hòa thuận gió mưa, Dân đều vổ bụng sớm trưa no lòng.
Nam-kỳ thống-đốc một ông, Làm đầu sáu tỉnh thạnh long tước quyền.
Hạt nào hạt nấy đều riêng, Bên phan bên niết mối giềng sửa đương.
Sỉ, Công, Hình, Hộ, Binh, Thương, Nơi nơi phần trị phô trương phải bề.
Hội-đồng Nghị-viện chỉnh tề, Dân an bất động cổ bề chiến chinh.
Chánh-chung giàu nước mạnh binh, Cỏi Nam triệu chúng trị bình âu ca.
Ngụ lời cảm khái ngâm nga, Biết đâu nói đó lựa là thấp cao.
Nôm na lục bác tầm phào, Cứ theo chuyện thật điển vào nên câu.