Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Thủ Dầu Một

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Thủ-Dầu-Một

Thủ-dầu-một phong cảnh thi:

Thủ-dầu-một cảnh rất xinh thay,
Xứ tốt gổ cây khéo thợ thầy.
Chánh-bố công đường cao mát mẻ,
Phú-cường hội quán tiếng xưa nay.
Đờn bà nghĩa khí nhiều tay lịch,
Hương chức thanh cần chử dạ ngay.
Chùa miễu anh linh phong thủy đẹp,
Thanh tươi quả phẫm ít nơi tày.

Dầu-một phong thổ tốt thay, Gốc xưa chổ thủ coi rày gổ cây.
Đổi dời qua đến đời tây, Quan quân dinh dải đặt bày nghiêm trang.
Dầu sao im ái tứ bàng, Bố-đường trên nổng lặng trang tư bề.
Sơn lâm tài mộc ê hề, Ruộng vườn đồng rẩy phủ phê dư dùng.
Trại ghe trại ván sẳng cùng, Sông sâu nước chảy điệp trùng bán buôn.
Nhà khéo cất tốn bạc muôn, Tiếng đồn thợ thủ rặp khuôn kỹ càng.
Thanh hoa đẵng vật khắp ngàn, Trái cây trà huế nhẫy tràng biết bao.
Nai hưu lắm lúc ra vào, Đở cơn săng bắn tữu hào yến tân.
Tục hay ham chuộng đạo văn, Trẻ già khẵn khái xa gần thiện lương.
Roi còn gốc trước văn chương, Ăn chơi đờn địch khiêm nhường phong lưu.
Nhiều nhà tích đức đi mưu, Nhiều tay kiến nghĩa không cưu bạc tiền.
Thường thường trọng đạo thánh hiền, Quan hôn tan tế lể liền vản lai.
Phú-cường sung túc lâu dài, Châu thành sở tại làng ai sánh tày.
Khuôn viên đàng sá thẳng ngay, Phố phường thứ lớp sắp bày lịch xinh.
Nhà chợ dài rộng thinh thinh, Bạn hàng đông đảo xanh quanh chỉnh tề.
Tuy là một chổ xứ quê, Nhơn hòa địa lợi ví kề Trường-an.
Dân đều no ấm thanh nhàn, Non nhơn nước trí bỉ bàn vui say.
Đình thần phong cảnh tốt thay, Trong Rạch-bà-lụa ngoài rày đại giang.
Nền cao cắp bước tợ than, Trung gian chánh điện nghiêm trang phụng thờ.
Đất linh im ái như tờ, Bốn mùa hoa quả khắp bờ phuơng phi.
Xuân kỳ thu báo lể nghi, Phô trương phẩm tiết đều thì nghiễm tôn.
Chiếm đầu phong thủy mấy thôn, Nguy nga đống vỏ vỉnh tồn vạng niên.
Chùa phật bền vững mối giềng, Tên chùa Hội-khánh lạt quyên cũa nhiều.
Thiện nam tính nữ dập dều, Xúm nhau bồi đấp mĩ miều ngoài trong.
Đờn bà Chợ-thũ có lòng, Kẻ đa người thiễu cũa công hội tề.

Bạc ngàn đâu đậu ê hề, Cất ra miễu vỏ phải bề lịch xinh.
Phụng thờ bà Chúa-thai-sanh, Sắp bày nghi tiết kỉnh thành nghiêm trang.
Liểu bồ tư chấc diệu dàng. Khuê-trung-nghĩa-hội danh càng rạng danh.
Các nơi thôn xả miễu đình, Qui mô tuy kém hiễn linh cũng nhiều.
Chợ đông người nhóm dập dều, Chợ-thủ nguyên trước cựu triều Bến xe.
Người nhờ đất chở trời che, Ngày nay đông đảo cảnh khoe mĩ miều.
Tốt thay phong cảnh Lái-thiêu, Bông hoa cây trái vật đều món ngon.
Cây cao trên nổng thon von, Bóng im gió mát bon bon tư bề.
Nhà-thờ Thiên-chúa chĩnh tề, Nhà-cha nhà-phước phủ phê trong ngoài.
Gội nhuần ơn chúa quản khai, Thảy người trong họ ai ai cũng nhờ.
Đồng-nam đồng-nữ trẻ thơ, Đọc kinh xem lể tư cơ sẳng sàng.
Lại thêm trường học rỏ ràng, Dạy người câm điết phép troàn nơi tay.
Khéo bày qui cũ rất hay, Bề trên công đức sánh tày tái sanh.
Điềt câm còn biết học hành, Lịch thay phong hóa đã đành làm gương.
Tân-thới có tích dị thường, ông Huỳnh-công-Nhẫn chuyện đương ràng ràng.
Xưa làm thầy pháp tiếng van, Tứ trong Bưng ở chẳng màng thân danh.
Cọp hùm thuở ấy tung hoành, Đi đêm thì sợ tai sanh bất kỳ.
Những người tâm tối ra đi, Tới Bưng xin phép vậy thì Huỳnh-công.
Nước miếng nhổ vào tay không, Ấy là phép lạ của ông cho về.
Thảy đều an ỗn không hề, Ít năm ông lại về quê đã rồi.
Người thương kẻ nhớ ngậm nguồi, Khẩn cầu nơi mả tới lui dập dều.
Vái đâu đặng đó rất nhiều, Rồi đem lể cúng biết nhiêu là người.
Hương đăng trà quả sốt tươi, Vào ra kễ xiết mấy mươi bộ hành.
Mả kề trảng các trắng tinh, Tại cầu Bưng-bố anh linh vô hồi.
Quả nhiên tú khí tài bồi, Thiên thu huyết thực nhứt đôi nhưởn tiền.
Thiệt là khả tát cữu nguyên, Sanh tiền tữ hậu phận riêng giúp đời.
Nổi ra danh giá một nơi, Phải là đứng giữa đất trời khuôn viên.
Xóm làng chung cọng bạc tiền, Chở vôi đá tới xây yên dai thành.
Hồn ông mách bảo chẳng đành, Nay còn vôi đá để xanh quanh đường.
Những nơi tư thục các trường, Hãy roi dấu trước văn chương ít nhiều.
Thầy thuốc kể biết bao nhiêu, Tứ-quân, Bại-độc, Tiêu-diêu, hốt hoài.
Thập-toàn, Bát-vị, An-thai, May thầy phước chủ thang bài như chơi.
Lâu lâu lể tỗ thiệp mời, Đòi tiền thân chủ vốn lời đủ xây.
Trường quan cách dạy chữ tây, Đã hay mẹo mực lại hay vẻ vời.
Thông minh người sẳng tánh trời, Lần qua trường lớn cập thời công danh.
Quấc gia dưởng sỉ hậu tình, Sắm ra có chỗ cho mình hiễn vinh.
Dĩa nghiên ngòi viết đua tranh, Làm nên ấu học tráng hành mới ngoan.
Mười hai tỗng trăm dư làng, Ghe nhà khéo léo lịch sang phải trò.
Xe bò, xe ngựa, tàu đò, Tứ dân nghệ nghiệp ấm no vững vàng.
Ghe đua êm ái nhẹ nhàn, Bình-nhâm, Tân-thới hai làng hậu tiên.
Làng Vĩnh-trường, suối Tham-miêng, Đất như bột trắng vò viên mịn mà.
Các nơi lò chén gần xa, Tới chở đất ấy vào ra liền liền.

Thuở xưa có mạch nước tiên, Uống hay giải cứu bịnh phiền người ta.
Đặt tên là nước Mội-bà, Cất bên cái miễu thờ bà Linh-sang.
Xã-Hợi người tánh quá ngang, Thấy làm những chuyện dị đoan cũng kỷ.
Ra tay lấp mội ấy đi, Nước tiên bặc mất còn chi mà cầu.
Làng kiện Xã-Hợi ở tù, Bỏ hoan miễu đó mịt mù đã lâu.
Lái-thiêu, Chợ-búng, Bưng-cầu, Trong ba chợ ấy trước sau đông dầm.
Chơn-thành, Hưng-định Bình-nhâm, Vẻn van nhà chợ cất nhằm chỗ cao.
Tỗng-duơn, An-phú Ông-trao, Tỗng-thu, bốn chợ phú hào biết nhiêu.
Nhà-thờ thủ rất mĩ miều, Trẻ học quấc-ngữ mơi chiều a bê.
Có tên Bá-Đãnh dòng Lê, Ngoài thời riêng đặt hiệu đề Huyện-thi.
Người đà âm cảnh từ qui, Chừ luôn nói lại vậy thì nghe chơi.
Kiếm cung lăm chống chỏi trời, Tách miền Kinh-bắc vào nơi Phú-cường
Bỗn sanh hoanh liệc phi thường, Bấy năm mưu mật tư lương luận đàm.
Hóa gia chuyện chẳng dể làm, Tiết thay xanh vạt mùi cam hơn đường.
Xưa nay thần khí đế vương, Cượng cầu thì mắc tai ương khốn cùng.
Gương cho những khách gian hùng, Thảo cha ngay chúa dè lòng kỷ cang.