Nam Phong tạp chí/Quyển I/Số 2/Văn-uyển/Bài văn của vua Gia-Long tế ông Bách-đa-Lộc
BÀI VĂN CỦA VUA GIA-LONG
TẾ ÔNG BÁCH-ĐA-LỘC
Văn-chương nôm cũ của nước ta không có mấy tí, mà cái mấy tí ấy cũng thường không giữ được đến ta. Thực đáng tiếc thay ! Vì trong lịch-sử nước Nam đã từng có may buổi văn nôm thịnh-hành, nhất là trong thời-kỳ gồm cuối nhà Lê đầu bản-triều. Mà văn nôm lúc bấy giờ đã hơi có tính-cách riêng : văn Lê-mạt thì thường có cái khí-vị chua cay, than thân oán đời, thực là văn thời suy ; văn bản-triều thì biểu cái khí-tượng hùng-cường, thực là văn lúc vận nước đương thịnh.
Bản-báo nhặt được mấy bài văn-tế về đầu bản-triều. Sau này đăng một bài của Đức Thế-tổ Cao hoàng-đế tế ông Bách-đa-Lộc (évêque d’Adran), là người giáo-sư Pháp đã giúp người trong buổi loạn-li tranh-chiến. Bản-báo còn muốn rộng cầu ở các bạn xem báo, ông nào tìm được bài thơ văn nôm của các cụ ta ngày xưa gửi lại cho thì lấy làm hân-hạnh lắm. Sự sưu-tập ấy thực có quan-hệ đến quốc-túy vậy.
Hỡi ơi! Người nước khác mà dạ lòng chẳng khác, công non sông thẻ lụa đương cài; ân nghĩa tròn mà báo đáp chưa tròn, đường sống thác sớm chầy khó liệu. Êm giấc hòe hồn đó thanh-thanh, nhớ ơn trước sầu đây đìu-địu. Thủa ta mới quyền trao nguyên-súy, bạn tóc răng vui nghĩa sơ-giao; ngày ngươi vừa làm khách viễn-phương, lòng vàng đá phỉ nguyền tương chiếu. Nghĩ lúc lưng gầy bước ngặt, đình Nam-vang bầu tân-lữ, phiêu-lưu cho khỏi bạo tàn; tưởng khi mặt ủ gan phiền, giời cố-quốc bến hậu-giang, tìm hỏi chẳng từ hiểm-yếu. Cực đến nỗi chạ con khôn giữ, gửi gia-nhi trao quốc-bảo, giời tây-dương muôn-hộc ai-hoài; may vừa đâu nhà nước mới về, đưa ấu-tử cầu lương-bằng, đất Đông-phố một đoàn vĩnh-hiếu. Công giáo-dưỡng mấy thu khẩn-khẩn, phúc ta nhiều gần sánh tam vương; nghiệp tổ-tôn nghìn thủa miên-miên, công gã giúp ngõ toàn cửu-miếu. Đạo tây-vực một miền riêng giữ, chẳng cậy ai quốc-tử hoàng-tôn; nạn Nam-bang trăm chước mưu-lo, dựa hết sức mưu mầu chước diệu. Nhà thái-học chia ngôi tây-tịch, trải tín-thành đòi buổi huân-đào; dặm cô-thành hộ giá đông-cung, thêm khảng-khái mấy lần thượng biểu. Mưu tế-quốc kinh-luân dạ đỏ, từng hay liệu địch chia đồn; phép dùng binh thao-lược mắt tường, chi quản xông tên rạn pháo. Chế hỏa-xa bầy trái-phá, rẹp lòng loạn-tặc thủa long-đong; đoàn thiết-tử tán hoa ngân, giúp vận nước nhà khi thiếu-thốn. Ân nặng đó mười phần công-của, trước sau trọn nghĩa tiên-thi; nhẽ cùng ta nghìn thủa tôn-vinh, đây đó phỉ nguyền hậu báo. Mấy thu trấn biên-thành Diên-khánh, tặc-đảng đồn mất vía kinh hồn; một trận hàng hiểm-địa Qui-nhơn, cố-nhân sớm phân bào chia áo. Ôi! núi nhạc về thần, giời nam để dấu. Giọt đồng-long ô-yết dễ đành, lệ lạp-trúc sụt-sùi khôn ráo. Giăng tối chợt ngờ nhan-sắc, mở dèm đãi khách gia-tân; mây chiều ngẫm tưởng phong-nghi, thiết ỷ mong người cố-lão. Chữ đạo đồng sinh-dưỡng, chế tâm-tang con chút đáp ân; câu vinh cập một tồn, tặng thái-phó ta đưa tình thảo. Theo ý chúng nghi-lề ngoại-quốc, khi tống-chung đó, đã xong sác cất hồn cầu; hết lòng thành lấy lễ trung-hoa, kỳ tử biệt đây, ngỏ tạm bầy tiên tế điếu. Trước sống đã suy tình bằng-hữu, lòng trung lo sự nghiệp trung-hưng; nay thác rồi nhớ nghĩa quân-thần, linh còn giúp cơ-đồ tái-tạo.
Hỡi ôi! thương thay!