Bước tới nội dung

Pháp lệnh Quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Pháp lệnh Quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa  (1961) 
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam

Pháp lệnh số 18-LCT được thông qua ngày 23 tháng 3 năm 1961, ban hành và có hiệu lực ngày 30 tháng 3 năm 1961, hết hiệu lực ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Căn cứ vào Điều 98 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 14 tháng 7 năm 1960;

Để kiện toàn Toà án nhân dân các cấp, tăng cường tính chất nhân dân của tổ chức Toà án nhân dân và bảo đảm cho việc xét xử được chính xác và đúng pháp luật;

Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của các Toà án nhân dân địa phương.

Chương I. Tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao

[sửa]

Điều 1

[sửa]

Toà án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, một hoặc nhiều Phó chánh án, các thẩm phán và thẩm phán dự khuyết.

Toà án nhân dân tối cao có những tổ chức sau đây:

- Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

- Các Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao;

- Các Toà hình sự, Toà dân sự và Toà quân sự;

- Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao;

- Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Điều 2

[sửa]

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao[1] có nhiệm vụ:

A) Xét những vụ án quan trọng hoặc phức tạp;

B) Xét các kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với những bản án hoặc những quyết định của các Toà chuyên trách và Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao;

C) Hướng dẫn các Toà án áp dụng pháp luật và đường lối, chính sách xét xử;

D) Quyết định việc bố trí các thẩm phán trong các Toà của Toà án nhân dân tối cao;

Đ) Thảo luận những dự án luật, dự án pháp lệnh mà Toà án nhân dân tối cao sẽ trình Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội; thảo luận những vấn đề pháp luật cần đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải thích;

E) Tổng kết kinh nghiệm xét xử.

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có từ chín đến mười một uỷ viên.

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao họp ít nhất mỗi tháng hai lần và quyết định theo đa số.

Điều 3

[sửa]

Các Toà hình sự và Toà dân sự của Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền:

A) Sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao và những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp dưới nhưng Toà án nhân dân tối cao xét thấy cần lấy lên để xử;

B) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân khu tự trị bị chống án hoặc bị kháng nghị;

C) Xử lại những vụ án do Toà mình hoặc Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giao cho xử lại;

Xử lại những vụ án do Toà án nhân dân cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị.

Điều 4

[sửa]

Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền:

A) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương bị chống án hoặc bị kháng nghị;

B) Xử lại những vụ án do Toà mình đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giao cho xử lại.

Điều 5

[sửa]

Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ duyệt lại những bản án tử hình của Toà án nhân dân các cấp, căn cứ vào Điều 9 của Luật tổ chức Toà án nhân dân.

Điều 6

[sửa]

Chánh án Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ:

A) Báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

B) Chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban thẩm phán và Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

Chủ toạ phiên toà của các Toà chuyên trách và Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao, nếu xét thấy cần thiết;

C) Kháng nghị những bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân các cấp, nhưng phát hiện có sai lầm;

D) Tổ chức thống kê tư pháp toàn quốc;

Đ) Tổ chức việc tổng kết và phổ biến kinh nghiệm xét xử;

E) Đôn đốc việc thi hành các nghị quyết của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

Đôn đốc việc thực hiện chương trình công tác toàn ngành;

G) Điều hoà công việc giữa các Toà, các Vụ và các bộ phận khác của Toà án nhân dân tối cao;

H) Tổ chức việc kiểm tra công tác của các Toà án nhân dân địa phương;

I) Chỉ định các thẩm phán xét xử tại các phiên toà của các Toà chuyên trách hoặc Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao trong trường hợp các Toà này thiếu thẩm phán để mở phiên toà;

K) Chỉ đạo công tác nghiên cứu pháp luật và nghiên cứu đường lối, chính sách xét xử;

Chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp, công tác đào tạo và giáo dục cán bộ toà án và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân;

L) Bổ nhiệm và bãi miễn Chánh văn phòng, Phó văn phòng, Vụ trưởng, Phó vụ trưởng và những chức vụ tương đương trong tổ chức của Toà án nhân dân tối cao.

Các Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao giúp Chánh án làm nhiệm vụ và có thể được uỷ nhiệm thay Chánh án khi Chánh án vắng mặt.

Điều 7

[sửa]

Các Toà chuyên trách và Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao gồm có Chánh toà, Phó chánh toà và các thẩm phán.

Các Chánh toà của các Toà chuyên trách và Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ:

A) Điều khiển công tác của Toà;

B) Chỉ định các thẩm phán cho các phiên toà; chủ toạ phiên toà hoặc chỉ định một thẩm phán chủ toạ phiên toà;

C) Báo cáo công tác của Toà với Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Phó chánh toà giúp Chánh toà làm nhiệm vụ và có thể được uỷ nhiệm thay Chánh toà khi Chánh toà vắng mặt.

Điều 8

[sửa]

Tổ Chức cụ thể của bộ máy làm việc và biên chế của Toà án nhân dân tối cao do Chánh án Toà án nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Chương II. Tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương

[sửa]

Điều 9

[sửa]

Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền:

A) Sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương và những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của các Toà án đó, nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử;

B) Sơ thẩm những vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương, nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử;

C) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương bị chống án hoặc bị kháng nghị;

D) Xử lại những vụ án do Toà án mình hoặc Toà án cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Toà án nhân dân tối cao giao cho xử lại.

Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, huấn luyện thư ký toà án cho địa phương, huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị trấn và xã, và tổ chức việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Điều 10

[sửa]

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ:

A) Xét những vụ án quan trọng hoặc phức tạp;

B) Xét và báo cáo lên Toà án nhân dân tối cao những vụ án do Toà án mình hoặc Toà án cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phát hiện có sai lầm;

C) Hướng dẫn các Toà án cấp dưới áp dụng pháp luật và đường lối, chính sách xét xử;

D) Phân công cho các thẩm phán trong Toà án;

Đ) Tổng kết kinh nghiệm xét xử.

Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương họp ít nhất mỗi tháng hai lần và quyết định theo đa số.

Điều 11

[sửa]

Chánh án Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ:

A) Báo cáo công tác của Toà án trước Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà án;

B) Chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban thẩm phán;

C) Chỉ định các thẩm phán để mở phiên toà; lập danh sách hội thẩm nhân dân cho các phiên toà; chủ toạ phiên toà hoặc chỉ định một thẩm phán chủ toạ phiên toà;

D) Tổ chức thống kê tư pháp;

Đ) Tổ chức việc tổng kết và phổ biến kinh nghiệm xét xử;

E) Đôn đốc việc thi hành các nghị quyết của Uỷ ban thẩm phán;

G) Điều hoà công tác giữa các bộ phận của Toà án;

H) Tổ chức việc kiểm tra công tác của các Toà án nhân dân cấp dưới;

I) Chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, công tác huấn luyện thư ký Toà án cho địa phương, công tác huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị trấn và xã, và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ và có thể được uỷ nhiệm thay Chánh án khi Chánh án vắng mặt.

Điều 12

[sửa]

Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền:

A) Hoà giải những việc tranh chấp về dân sự;

B) Phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên toà;

C) Sơ thẩm những vụ án dân sự;

D) Sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống.

Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn công tác hoà giải ở các thị trấn và xã, và tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Điều 13

[sửa]

Chánh án Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ:

A) Báo cáo công tác của Toà án trước Hội đồng nhân dân cùng cấp;

B) Lập danh sách hội thẩm nhân dân cho các phiên toà, chủ toạ phiên toà hoặc chỉ định thẩm phán chủ toạ phiên toà;

C) Xét và báo cáo lên Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương những vụ án do Toà án mình đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phát hiện thấy có sai lầm;

D) Tổ chức việc tổng kết kinh nghiệm xét xử;

E) Hướng dẫn công tác tư pháp ở các thị trấn và xã;

Tổ chức việc kiểm tra công tác tư pháp ở các thị trấn và xã;

G) Phân công cho các thẩm phán trong Toà án;

H) Chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Phó chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ và có thể được uỷ nhiệm thay Chánh án khi Chánh án vắng mặt.

Điều 14

[sửa]

Tổ chức cụ thể của bộ máy làm việc và biên chế cụ thể của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo những quy định chung về bộ máy làm việc và biên chế của các cơ quan Nhà nước.

Tổng số biên chế của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Chương III. Việc bầu cử thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương

[sửa]

Điều 15

[sửa]

Chánh án, Phó chánh án và các thẩm phán của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.

Các uỷ viên Uỷ ban thẩm phán của các Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.

Chánh án, Phó chánh án, các thẩm phán và uỷ viên Uỷ ban thẩm phán có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.

Số thẩm phán của các Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, kể cả Chánh án và Phó chánh án, có từ bốn đến bảy người. Số uỷ viên Uỷ ban thẩm phán của các Toà án nhân dân đó có từ ba đến năm người.

Số thẩm phán của các Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương, kể cả Chánh án và Phó chánh án, không quá ba người.

Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể về số thẩm phán và uỷ viên Uỷ ban thẩm phán cần bầu cho mỗi Toà án nhân dân địa phương trong phạm vi quy định nói trên.

Chương IV. Việc bầu cử hội thẩm nhân dân và chế độ công tác của hội thẩm nhân dân

[sửa]

Điều 16

[sửa]

Khi Toà án nhân dân tối cao xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia thì hội thẩm nhân dân do Uỷ ban thường vụ Quốc hội cử ra, căn cứ vào sự giới thiệu của các đoàn thể nhân dân ở trung ương.

Điều 17

[sửa]

Các hội thẩm nhân dân của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.

Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân của các Toà án nhân dân địa phương các cấp là hai năm.

Điều 18

[sửa]

Số hội thẩm nhân dân của mỗi Toà án nhân dân địa phương do Chánh án Toà án nhân dân cấp ấy căn cứ vào sự hướng dẫn của Chánh án Toà án nhân dân tối cao mà đề nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.

Danh sách những người ứng cử hội thẩm nhân dân của mỗi Toà án nhân dân địa phương do các đoàn thể nhân dân cùng cấp giới thiệu.

Điều 19

[sửa]

Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm đến Toà án để làm nhiệm vụ của mình theo đúng ngày, giờ mà Toà án nhân dân đã định.

Các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã có cán bộ, công nhân, viên chức, xã viên làm hội thẩm nhân dân, phải tạo điều kiện thuận lợi cho hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ.

Điều 20

[sửa]

Trong thời gian làm nhiệm vụ ở Toà án, nếu hội thẩm nhân dân là những người ăn lương của Nhà nước thì vẫn được hưởng tiền lương của mình; nếu hội thẩm nhân dân không phải là người ăn lương của Nhà nước thì được hưởng một khoản phụ cấp do Nhà nước đài thọ.

Chương V. Điều khoản phụ

[sửa]

Điều 21

[sửa]

Ở các khu vực tự trị, tổ chức cụ thể của các Toà án nhân dân địa phương các cấp sẽ do Hội đồng nhân dân khu vực tự trị căn cứ vào Hiến pháp, Luật tổ chức Toà án nhân dân và pháp lệnh này mà quy định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Điều 22

[sửa]

Về tổ chức của các Toà án quân sự, sẽ có quy định riêng.


Pháp lệnh này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 23 tháng 3 năm 1961.

   




Chú thích

  1. Theo luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 14/7/1960 (điều 13 và điều 26): Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, các Phó chánh án và một số thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Chánh án do Quốc hội bầu ra và bãi miễn. Các Phó chánh án và các uỷ viên khác của Uỷ ban do Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn.


Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".