Bước tới nội dung

Tây hành nhật ký - Bài tự

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tây hành nhật ký - Bài tự  (1932) 
của Tôn Thất Đàn
Lạc-Viên TÔN-THẤT-ĐÀN
Hiệp-Tá-Đại-Học-Sĩ lãnh Hình-Bộ Thượng-Thơ
sung Cơ-Mật-Viện Đại-Thần


TÂY HÀNH NHẬT KÝ

BÀI TỰ

〇〇〇


Extrait du BULLETIN DES AMIS DU VIEUX HUÉ
(Đô Thành Hiếu Cổ Xã)
Nº 4 — Septembre - Décembre 1932.

TÂY-HÀNH-NHẬT-KÝ

Lạc-Viên Tôn-thất-Đàn

Hiệp-tá Đại-học-sĩ lãnh Hình-bộ Thương-Thơ
sung Cơ-mật-viện Đại-thần, như tây chiêm-cận và tham
dự hội Thuộc-địa đấu-xão Paris năm 1932

Võ-Truy

Phán-sự tòa Khâm-Sứ sung Sứ-bộ từ-hàn

BIÊN TẬP

西行日記

協佐大學士頜刑部尙書充機密
院大臣如西瞻覲並參與巴黎屬
地博賽會使部

樂園尊室櫝

欽使座判事充使部詞翰
武追

奉編輯


保大辛未六年十月望
西曆千九百三十一年十一月日

Tây-hành-nhật-ký

BÀI TỰ

Tự khi nước Đại-pháp qua bảo-hộ nước Nam ta, đem cách văn-minh bên Âu-Mỹ qua truyền bá cho ta, nào là lập trường học, dựng nhà thương, mở mang các đồn-điền, gầy dựng các nhà máy, dưới nước có tàu trên bộ có xe, thiệt là hết lòng khai hóa, muốn cho nước ta mau tiến bộ, không những là phô bày các cái hình thức ra ở xứ ta mà thôi, mà lại còn lựa người văn-nhơn tú-sĩ cho qua du-lịch các tỉnh lớn của Đại-pháp mà quan sát cho biết cái tinh-thần để về mà truyền bá cho dân ta mau hiểu, thế mà đã hơn ba bốn mươi năm, người ta vẫn còn đương lơ lửng sụt sùi chưa thấy chi là phát đạt cho lắm.

Không nói những người ở thôn quê quen theo lối cũ không dám bước chân đi xa, không dám làm việc gì mới, mà xầm xầy lẫn quẩn đã đành, chớ những người ở thành-thị hiểu cách tân-thời thấy những người Pháp làm chi thời bắt chước làm nấy: có hội đọc báo, có trường thễ-thao, có công-ty nầy, có công-ty kia, cũng mở nhà-hàng, cũng đi khai-khẩn, cũng sắm xe đi đưa khách, cũng sắm tàu để chở hàng, ngó đã ra bộ lăng xăng rột rịt lắm, mà sự kết quả chưa thấy ra gì? ấy là bỡi tại đâu? có thể đổ cho là tại thời vận hay là tại phong thổ được không? hai cớ ấy chắc là không, tất nhiên là tại học thức chưa thấu đáo là phải? nhưng đổ cho học thức lại e nhiều người bẻ rằng: trong nước ta ngày nay biết mấy là người có Diplomes, Brevets, người thời tốt nghiệp, người thời cao-đẳng, người thời Agent-technique, người thời Ingénieur, người thời Cử-nhơn Tiến-sĩ, người đậu khoa nầy, người đậu món nọ, thiếu chi là kẻ văn học tài năng sao dám cho là học chưa thấu đáo? Tôi xin đáp rằng: không những học Tây mới vài ba mươi năm nay, chưa thấm chi, chớ học Tàu, học sách Hán đã mấy trăm năm, mà đã có cái chi theo kịp Tàu chưa? Phàm những người học chữ Hán, ai không học sách Đại-học, mà có 4 chữ cách-vật-trí-tri, chánh-tâm thành-ý, có mấy người chịu học cho rõ ràng, có mấy người thân-thễ lực-hành cho trọn vẹn? thời còn nói chi đến tu-tế trị-bình, còn mò chi đến hiệt-cũ đại-đạo Học đã dối thời làm sao mà có kiến thức được, học thức đã kém thời lấy chi mà thi thố, làm chi mà có sự nghiệp được. Huống chi chưa nóng nước đã đỏ cọng, toan lấy thúng mà úp voi, chỉ lo hào nháng đễ mà lòe người, kiếm cách phỉnh phờ, toan bề ích kỷ, ăn xổi ở thời, khôn nhà dại chợ, thời còn trông kết quả cho mỹ mãn lâu dài sao được.

Tôi không dám chê ai, không dám chỉ vào đâu, tôi tự hỏi lấy tôi mà tôi tự kiện lấy tôi trước đã, tiếc vì thời giờ chậm trễ, đứng bóng xế chiều, biết dốt mà không sao học thêm được, tức quá!

Nhơn ngày 17 tháng 2 năm nay (4-4-31) tôi được cử đi chiêm-cận đễ dự cuộc đấu-xảo Paris cho luôn, đến đó tôi mới lò mò hỏi thăm đễ mà học lóm một đôi chút, gặp được bậc đại-gia chánh-trị tôi hởi, gặp được kẻ mỹ-nghệ chuyên-môn tôi hỏi, khi vô nhà hàng đễ hỏi thăm việc buôn bán, khi đến các nhà máy đễ xem cách chế tạo, khi dạo thành phố đễ xem cách sắp đặt, mỗi vẽ mỗi hay, khi ra nhà quê đễ coi cách ăn làm có ngăn có xõi, vào các viện tàng-cổ, coi các thức người ta giữ gìn yêu dấu và cái lối người ta cải cách mở mang, ngày đi nghe thấy được đều gì; đêm nằm cứ suy nghĩ so sánh, càng nghĩ chừng nào, càng dục cái lòng hâm mộ sốt sắn chừng nấy.

Như vào chốn Triều-đình thấy các quan lớn nhỏ đều chăm lo bổn phận, làm việc ngó bộ siêng năng sốt sắn lắm càng chức lớn càng làm việc nhiều, càng giữ phép luật kỹ càng theo lẽ công bình luôn, cho nên người nhỏ yêu mến người lớn, kẻ dưới kính sợ kẻ trên, mà không phải làm bộ trước mặt, dầu sau lưng cũng vẫn thấy kính nể như vậy. Rứa là vì người ta kính trọng quốc-pháp cho nên giữ được trật-tự.

Đi ra chỗ thành-thị thời cái sự nhơn dân nhà cữa phồn-thạnh nguy nga không xiết kể, chỉ xem cách sắp đặt hiệu lệnh ngó nghiêm minh, lại có thói lễ nhượng, ở chỗ Paris rộng có một triệu (1.000.000) thuớc vuông, người có đến ba triệu (3.000.000) người, tôi ở đó gần 2 tháng ngày nào cũng có đi dạo xem, mà không hề thấy khi nào có đám đập bậy, hay là đám la bới chi nhau cả, giữa đường thời xe điện lớn, xe điện nhỏ, xe máy, xe ngựa, chạy qua chạy lại thường có trăm chiếc, người đi chân thường có hàng ngàn người, mà không hề nghe la nói không thấy đụng nhau, mỗi chỗ ngã tư, hoặc ngã sáu có một người police cầm cái bâton ngắn, hễ dơ đứng lên mà vu vơ một thí, thời xe nào cũng phải đứng lại hết, rồi người police dơ nằm cái bâton chỉ về ngã nào thời đoàn xe ngã ấy chạy, dẫu cho xe ông nào lớn mấy cũng phải như vậy, không ai được dành lẫn ai hết; đường xe đi cách một đoạn chừng 300 thước, có đóng mấy cái dấu bằng sắt sát đất để cho người ta đi bên ni đường qua bên tê đường, cứ giữa dấu mà đi, thời xe thấy phải tránh, rứa là xe tránh người chớ không phải người tránh xe, cho nên khi người đương đi giữa đường, hễ thấy xe chạy tới, thời đương đi bên nào cứ đứng yên bên ấy, rồi xe tự tránh, không hề thấy người đi chân có sợ hãi chạng rạng chi cả coi vậy thời biết cái hiệu lịnh của người ta nhứt định rõ ràng Vào mấy chỗ vườn công, chỗ thời rộng chừng 5, 3 mẫu, chỗ thời đến 15, 20 mau, đường sá bồn cảnh có hàng có lối, có hoa rực rở như nệm trải, như gấm thêu, không thấy người canh gác ai muốn vào thời vào mà không thấy ai giám bẻ một nhánh lá hay là giám hái một nhành bông, chỉ lấy mắt mà nhìn thôi, chiều lại thời đàn ông, đàn bà người lớn con nít kéo nhau đến vườn dạo chơi, mỗi đoạn đã có ghế để sẵn, đi chán lại ngồi, người thời coi sách coi nhật trình, người thời thêu thùa may vá, con nít thời đua bơi vọt nhảy, kể có hàng trăm hàng nghìn người mà trẻ con cũng biết giữ phép, không hề thấy đứa nào bước lên bờ cỏ, hay là đi vô bồn hoa như mấy đứa ba bốn tuổi dại lỡ bò vô thời những đứa mươi hai tuổi đã chạy bồng ra liền, coi vậy thời biết pháp luật người ta rõ ràng, ai nấy cũng đều biết mà giữ, hiệu lịnh nhứt định không ai còn giám làm sai, suy việc nhỏ thời ra việc lớn.

Ngày 14 Juillet tôi có được dự xem duyệt binh các hiệu quân có hàng vạn, ngựa vài ba ngàn con, tàu bay trên không một đoàn mười chiếc, đội ngụ chỉnh tề, oai thanh hùng tráng kể không xiết, chỉ nói lấy sự người đi coi, đã có cái vẻ khác hơn mình nhiều, đường duyệt binh dài cũng bằng Đập-đá lên đến cầu Care, người đi coi lấy van mà kể, mà từ đầu đường đến cuối đường chừng mười người police cầm cái bâton ngắn, đi nhịp nhịp ra dấu, chớ không đập đánh xô đẩy chi hết, mà không thấy người nào đi ra giữa đường, chỉ ngồi hai bên lề thẳng như giây dăng, lặng phắc không hề nghe nói to tiếng, thấy cái cờ quốc-hiệu đi ngang qua thời dơ tay chào; lại có một đều nầy dễ cảm xúc lắm: sau khi trận Âu-châu đại chiến rồi, người bị thương cắt cụt chân, người ta dùng thức xe như xe kéo, nhưng có máy chỉ ngồi mà lấy tay nhún thời chạy, khi duyệt-binh thời thấy vài ba cái đến coi hễ thấy xe ấy ghé vào đâu thời những người đương ngồi coi đông đều đứng dậy tránh, để cho xe ấy đi vô trong lề đường mà đậu. Còn mình đi dọc đường, mình hỏi thăm việc chi thấy người police đường xa mình ngoắc một cái thời chạy lại liền, cất mủ chào đã, rồi mới hỏi ông muốn nói chi? mình hỏi thời trả lời rõ ràng kỹ lưỡng, như khi mình hỏi nhà người nào ở nhằm chỗ hẻo lánh, thời người police lên theo xe mà đi chỉ tận nơi, ngó bộ châu đáo lắm, coi vậy thời biết người ta đối với người du-khách lấy lòng thành thiệt, cái tục lễ nhượng ấy đáng bắt chước lắm.

Vô xem một nhà hàng lớn, bán đủ trăm thức, người coi bán có đến ba bốn trăm người mà người nào cũng thấy bộ chăm chỉ hết lòng ngọt ngào vui vẻ cách mua bán ngó phân minh lắm, không hề thấ gian lẫn. Đi đến một chỗ chế-tạo thời nào thợ thuyền, nào thơ-ký có đến năm bảy ngàn người mà người nào lo bản phận nấy, làm không hở tay, tuy vắng mặt ông chủ cũng cứ siêng năng sốt sắng; coi vậy thời biết người ta trọng bề liêm-sĩ, người ta đối với nhau lấy lòng thành thực, không lừa phỉnh nhau, nên chi đoàn-thể phe-cánh được bền lắm

Đi đến các chỗ đền-đài của các nhà vua thuở xưa, nào là chỗ nằm chỗ ngồi, bàn ăn, bàn viết, nào là cái gươm, cái súng, cái mủ, cái đai cho đến những đồ ngựa, đồ xe, bức thêu bức vẽ, đã cách mấy trăm năm mà vẫn giữ gìn sắp đặt như nguyên, tuy là có lắm phen cách-mạng mà người ta không hề xâm phạm phá hủy chút gì; coi vậy thời người ta phản đối với cá-nhơn, chớ của báu trong nước thời người ta coi là của báu chung mà một lòng kính trọng. Còn như mấ viện Tàng-cổ thời đồ vẽ, đồ thêu, đồ đúc, đồ chạm, đồ chai, đồ sành, đồ đồng đồ sắt nhiều kiểu lạ lùng, đồ trong nước có, đồ ngoại-quốc có, cả Tây-Âu, Đông-Á ở đâu có cái gì tốt đẹp là người thu thập lại không thiếu thứ chi, có chỗ thời thiệt là của nhà-nước để lưu truyền, mà cũng có chỗ là nguyên của một người nhà giàu, hoặc của một ông quan lớn lúc sanh tiền người ta sắm ra đến khi một-hậu, người ta viết giấy để lại cho nhà-nước, thành ra cái của quý-báu người ta cứ giữ được hoài, một món của cho ấy có phải ít sao, cho các sở, chỗ thời năm bảy gian nhà, chỗ thời ba bốn cái nhà to đồ để khắp cả, thời là kể đến mấy mươi triệu, coi vậy thời biết cái bụng người ta nghĩ rộng rải sâu xa biết chừng nào? e mấy người ấy họ cũng thường đọc câu sách rằng: thiên hạ chi bửu đương giự thiên hạ cọng chi 天 下 之 寶 當 與 天 下 共 之 thời phải.

Đi đến mấy chỗ mộ-địa, thời thấy chỗ nào cũng xây đắp rào dạo sạch sẽ, roi trồng hoa trồng cỏ, ngay hàng thẳng lối, ngó khéo lắm, nhiều cái mả chôn dưới rồi xây trên như một cái miếu có cữa gương cữa sắt, trong cũng có để độc-bình tọa-đăng, có chỗ thấy áo quần giày mũ đồ dùng thường để thờ, có chỗ lại xây tượng đứng trên mả, khi đến thăm, thời đem bông đến cúng, người ta cũng trọng người chết vậy, chỗ mộ-địa không ai được đi bậy vào, trừ chỉ có người đi thăm mà thôi, súc-vật không khi nào dám bước vào; ngó cũng văn minh thiệt.

Ra chỗ nhà quê thời thấy ruộng đất mênh mông, trồng trỉa chê chán, chỗ thời lúa mì, chỗ thời cải-củ, chỗ thời thuốc, chỗ thời nho, chỗ trồng rau trồng khoai, chỗ trồng hoa trồng quả, mỗi chủ mỗi khoảnh liên lạc với nhau, chỉ trồng một hàng cây sưa sưa hoặc đóng mấy cái cọc để làm giái-hạn, nhưng phần ai cứ nấy, không hề ai dành lẫn nhau; lúa mì cắt rồi chất đống để giữa ruộng, mười lăm ngày mới ra đập lấy lúa hột mà không ai dám ăn trộm bỡi vì luật police của người ta nghiêm lắm, làng nào cũng có đặt police đi tuần, hễ có ăn trộm thời người ta soát bắt được ngay, cho nên các thú đồ vật không ai ăn trộm. Nuôi súc-vật như là bò, ngựa, dê, cừu, thời ai nấy đều phải có đất riêng trồng cỏ, bốn phía rào lại, thả súc-vật ăn nội trong khoảng đất của mình, chớ không thả bậy ra mấy cho đất khác, cho đến trong rừng cây cũng không cho súc-vật dẩm vào, là những các rừng cây phần nhiều của người trồng, chớ không phải toàn của trời sinh, Đi chăn bò, chăn cừu, thời thấy những ông già cụm rụm đi chăn, nhưng mà chỉ ngồi một chỗ coi nhật-trình, còn canh giữ thời đã có vài con chó, khi bò hay cừu ra ngoài rào thời chó chạy lại đuổi vô, khi gần tối đem về cũng chó chạy đuổi về, chó đi hai bên, lừa bò cừu đi trước, ông già cứ thủng thẳng đi sau ngó khỏe lắm, người ta tập con chó để làm việc, cũng như người làm việc, còn cày cắt thời dùng máy ngựa kéo; một cái máy làm mau bằng 10 người làm tay, nên chi người ta làm máy cho đỡ công người, mà lại làm được chuyên nữa; coi công việc người ta ăn làm thiệt là có nghị lực, chớ không có việc chi làm cẩu thả lấy rồi, tuy là chỗ nhà quê mà đường sá cũng rộng rãi sạch sẽ cũng rãi đá, cũng đổ dầu, cầu cống cũng toàn là ciment armé, ngó thấy mà thèm quá. Bên ấy không có trâu, cày bừa chỉ dùng bằng ngựa. Tôi đi hỏa-xa tự Marseille đến Paris vừa trọn một ngày, đường đất cũng bằng tự Kinh vô đến Phan-thiết, rồi sau lại đi từ Paris qua Vichy, đường đất cũng gần bằng chừng nấy, lần sau nữa tôi lại đi từ Paris lên Arras giáp nước Tỷ-lợi-thời, cũng bằng từ Huế vô đến tỉnh Quảng-ngãi, mà tôi không thấy một miếng đất nào bỏ hoang cả, người trong nước bất kỳ là đờn ông, đờn bà, người nào cũng làm việc, ít thấy người ở nể, mà lại ham học ham nghe biết truyện mới; hễ làm việc hở tay, thời đã thấy, cầm tờ nhật-trình hay là quyển sách dở ra coi, người ta vừa làm vừa học thêm; tài chi kiến thức không càng ngày càng rộng, kỹ-nghệ không càng ngày càng tinh, người ta đã trù tính việc chi có ích lợi, thời khó khăn lắm người ta cũng gắng cho đến nơi, hao tổn mấy người ta cũng làm cho kỳ được.

Tôi cốt muốn coi các trường Đại-học, cách dạy cách thi và thượng-hạ-nghị-viện khi hội nghị nói phô cải cọ cách làm sao? Tiếc lúc tôi qua đến Paris thời vừa tháng nghĩ hè, người ta đã đi hóng mát cả, chỉ coi được mấy cái trường, mấy cái viện cùng đồ đạc đó mà thôi, không được coi khi làm việc.

Nói tóm lại thời người ta cần kiệm kiên nhẩn, nên người ta làm được công việc lớn lao, đất không bỏ hoang, người không chơi luống, tài chi nước người ta không giầu mạnh, đó là mười phần tôi mới thấy được vài ba phần, mà như gắng bắt chước lấy chừng ấy mà làm cho được như vậy, thời cũng đã là khá lắm. Nên ngày nào tôi đi đến chỗ nào, thấy được cái chi tôi có biểu tên Thơ-ký của tôi là Vỏ-Truy biên lược để cho nhớ mà suy nghiệm; tuy lời lẽ quê vụng, nhưng sự thiệt thời ít sai để lại ngày sau làm một vật kỹ-niệm cũng được.

Ngày 15 tháng 10 năm Tân-Vị niên hiệu Bảo-Đại thứ 6.

Lạc-Viên Tôn-thất-Đàn tự





Imp. DAC-LAP, Hué

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng ở Hoa Kỳ vì nó được phát hành lần đầu tiên ở bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ (và không được phát hành ở Hoa Kỳ trong vòng 30 ngày) nó được phát hành lần đầu tiên trước 1989 mà không tuân thủ các thủ tục bản quyền của Hoa Kỳ (gia hạn và/hoặc thông báo bản quyền) nó thuộc phạm vi công cộng ở quốc gia gốc vào ngày URAA (1 tháng 1 năm 1996 đối với đa số quốc gia, đối với Việt Nam là ngày 23 tháng 12 năm 1998).


Tác giả mất năm 1936, do đó tác phẩm này cũng thuộc phạm vi công cộng tại các quốc gia và vùng lãnh thổ có thời hạn bảo hộ bản quyềncuộc đời tác giả và 80 năm sau khi tác giả mất hoặc ngắn hơn. Tác phẩm này có thể cũng thuộc phạm vi công cộng ở các quốc gia và vùng lãnh thổ có thời hạn bảo hộ bản quyền dài hơn nhưng áp dụng luật thời hạn ngắn hơn đối với các tác phẩm nước ngoài.