Tự Đức, Mậu Dần niên, hữu quân thứ chi mệnh, lưu giản kinh trung liên hữu

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tự Đức, Mậu Dần niên, hữu quân thứ chi mệnh, lưu giản kinh trung liên hữu
của Nguyễn Ngọc Tương

Phiên âm Hán-Việt:
Mệnh hạ văn kê kiếm tiện ma
Bất tu bôi tửu, xướng ly ca.
Quân thần, bằng hữu cương thường trọng,
Lang miếu, biên thùy phận sự đa.
Đàn phục vị năng tiêu xả thử,
Tẩy binh cô thí vãn Thiên hà.
Phỉ cung đồng thị vương thần nghĩa,
Hữu nhật triều thiên cảm oán ta.

Dịch nghĩa:
Năm Tự Đức, Mậu Dần (1876) có mệnh sai sứ đi quân thứ,
Gửi thư cho các bạn làm quan trong Kinh.
Lệnh vua ban xuống, nghe gà gáy liền mài gươm,
Chẳng cần phải tiễn rượu, hát bài Ly câu ca[1].
Vua tôi và bè bạn, đạo cương thường đều trọng,
Trong triều hay ngoài biên phận sự điều nhiều.
Bắn loài ẩn nấp, chưa thể diệt được chuột nền Xã [2]
Rửa đồ giáp binh, hãy thử kéo sông Ngân xuống [3]
Phần sự bầy tôi có nghĩa vụ phải quên mình,
Sẽ có ngày về chầu vua, đâu dám oán thán.

   




Chú thích

  1. Ly câu ca là khúc hát cổ dùng để đưa tiễn nhau khi đi xa .
  2. Nền Xã là nơi dùng để tế thần Đất.
  3. Điển tích lấy từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ: An đắc tráng sĩ vãn thiên hà; Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng. Dịch nghĩa: Ước gì có tráng sĩ kéo nước sông Ngân xuống (dịch chữ thiên hà); Rửa sạch khí giới, mãi mãi không dùng đến nữa.

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.