Tam quốc diễn nghĩa (Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỷ hiệu đính)/Hồi 21

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT

Tào Tháo uống rượu luận anh hùng
Quan-công lừa mưu giết Xa Trụ

Đổng Thừa vội hỏi Mã Đằng:

- Ông muốn rủ ai?

Đằng nói:

- Hiện bây giờ có Dự-châu mục là Lưu Huyền Đức ở đây sao không tìm đến?

Thừa nói:

- Người ấy tuy là chú vua, nhưng cũng nương dựa vào Tào Tháo, sao chịu làm việc này?

Đằng nói:

- Tôi xem trong cuộc đi săn hôm trước, khi Tào Tháo đứng trước mặt vua nhận lời chúc mừng của các quan, Vân-trường đứng sau Huyền-đức, vác đao toan giết Tháo, nhưng Huyền-đức đưa mắt, lại thôi. Huyền-đức không phải là không muốn giết Tào Tháo, vì sợ nanh vuốt của Tháo nhiều, sức mình không làm nổi đấy thôi. Ông thử đến xem, người ấy tất đồng tâm với ta.

Ngô Thạc nói:

- Việc ấy không nên hấp tấp, xin hãy để bàn bạc cho chín đã.

Năm người đều về nhà.

Đêm khuya hôm sau Đổng Thừa mang tờ chiếu đến nhà Huyền-đức. Lính canh vào báo, Huyền Đức ra đón mời vào trong gác ngồi chơi, Quan, Trương đứng hầu bên cạnh. Huyền-đức hỏi:

- Canh khuya, quốc-cữu đến đây tất có việc gì gấp?

Thừa nói:

- Ban ngày cưỡi ngựa đến chơi, sợ Tào Tháo ngờ cho nên đêm khuya mới đến.

Huyền-đức lấy rượu khoản đãi. Thừa nói:

- Bữa nọ trong cuộc đi săn, Vân-trường muốn giết Tào Tháo, tướng quân lại đưa mắt lắc đầu để ngăn đi, là ý làm sao?

Huyền-đức thất kinh nói:

- Sao ông biết?

Thừa nói:

- Người ta không ai trông thấy, chỉ có tôi biết mà thôi.

Huyền-đức không thể giấu được mới nói thực rằng:

- Em tôi thấy Tháo lấn quyền vua cho nên tức giận đó.

Thừa che mặt khóc nói rằng:

- Giả thử tôi con triều đình, ai cũng được như Vân-trường, thì lo gì thiên hạ chẳng được thái bình?

Huyền-đức sợ là Tào Tháo sai đến dò la, bèn nói giả cách rằng:

- Tào thừa-tướng sửa sang việc nước lo gì không thái bình?

Thừa tái mặt đứng dậy nói rằng:

- Ông là hoàng-thúc nhà Hán, cho nên ta vạch gan moi ruột để nói chuyện với ông, sao ông còn nói dối?

Huyền-đức nói:

- Tôi sợ quốc-cữu không thực bụng, nên phải thử.

Đổng Thừa đưa ngay tờ chiếu ra cho Huyền-đức xem. Huyền-đức lấy làm xót xa căm tức. Thừa lại đưa xem tờ nghĩa-trạng, có sáu người ký tên là: Đổng Thừa, Vương Tử-phục, Sung Tập, Ngô Thạc, Ngô Tử-lan và Mã Đằng.

Huyền-đức nói:

- Quốc-cữu đã phụng chiếu đánh giặc, tôi dám đâu không cố sức khuyển mã.

Thừa lại tạ mời ký tên. Huyền-đức ký “Tả-tướng-quân, Lưu Bị”, rồi đưa cho Thừa nhận lấy. Thừa nói:

- Nên mời thêm ba người nữa, họp đủ mười người trung nghĩa để trừ quốc tặc.

Huyền-đức nói:

- Nên thong thả, chớ hấp tấp khinh thường để tiết lộ việc lớn.

Hai người cùng nhau luận bàn đến tận canh năm mới biệt nhau.

Huyền-đức bấy giờ sợ Tháo nghi mình mưu đồ gì, bèn làm một vườn rau ở sau nhà ngày ngày cày cuốc bón xới, để làm cách che mắt cho người ngoài khỏi ngờ.

Quan, Trương thấy vậy hỏi rằng:

- Anh không lưu tâm đến việc lớn thiên hạ, học làm chi cái việc tầm thường này?

Huyền-đức nói:

- Hai em biết đâu ý anh!

Hai người từ đó không dám nói gì nữa.

Một hôm Quan Vũ, Trương Phi cùng đi chơi vắng, Huyền-đức đang lom khom cuốc đất tưới rau, bỗng thấy Hứa Chử và Trương Liêu dẫn vài mươi người vào vườn, nói rằng:

- Thừa-tướng sai chúng tôi đến mời sứ quân đến ngay phủ.

Huyền-đức giật mình, hỏi:

- Việc gì khẩn cấp thế, hai ông?

Hứa Chử thưa:

- Hai chúng tôi thấy sai thì vâng lệnh đi mời, chớ không biết việc chi.

Huyền-đức theo hai người vào phủ yết kiến Tháo, Tháo cười nói rằng:

- Huyền-đức độ này ở nhà làm một việc lớn lao đấy nhỉ!

Huyền-đức sợ tái mặt. Tháo cầm tay Huyền-đức dắt vào vườn ở sau nhà, nói rằng:

- Huyền-đức học làm vườn, chắc cũng không phải là việc dễ dàng?

Huyền-đức bấy giờ mới vững dạ, đáp rằng:

- Không có việc gì, làm để tiêu khiển đó thôi.

Tháo nói:

- Vừa rồi thấy trên cành mai đã có quả xanh, sực nhớ khi trước đi đánh Trương Tú, đi đường không có nước, tướng sĩ khát cào cuống họng. Bấy giờ ta nghĩ được một kế, cầm roi trỏ hão nói rằng: trước mặt có rừng mơ. Quân sĩ nghe thấy nói đến mơ, ai cũng ứa nước dãi, đỡ được khát nước. Nay có mơ thật, nên hái xuống mà thưởng. Vả lại rượu nấu vừa chín, cho nên mời sứ quân đến tiểu-đình uống rượu.

Huyền-đức bấy giờ tinh thần mới yên, theo đến tiểu-đình, đã thấy bày mâm bát, giữa bàn bày một đĩa mơ xanh, một bình rượu nóng.

Hai người ngồi đối diện, ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà ngà say, chợt thấy mây đen mù mịt, cơn mưa to sắp kéo đến.

Quân hầu trỏ lên trời bẩm:

- Có vòi rồng lấy nước.

Tháo và Huyền-đức cùng ngồi dựa vào bao lơn ngắm xem, Tháo hỏi:

- Sứ quân có biết rồng nó biến hóa thế nào không?

Huyền-đức nói:

- Tôi chưa được tường.

Tháo nói:

- Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay, lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu hình khép cánh; khi bay ra thì liệng trong trời đất; khi ẩn thì lẩn núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời biến hóa, cũng như là người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời. Huyền-đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay, hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.

Huyền-đức thưa:

- Bị này mắt thịt, biết đâu được anh hùng.

Tháo nói:

- Huyền-đức không nên nhún mình quá!

Huyền-đức nói:

- Bị nay được nhờ ơn thừa-tướng làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ thực không được biết.

Tháo nói:

- Đã đành không biết mặt, nhưng cũng có nghe tiếng chứ?

Huyền-đức nói:

- Viên Thuật ở Hoài-nam, binh lương nhiều, có thể cho là anh hùng được.

Tháo cười nói:

- Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được!

Huyền-đức lại nói:

- Anh Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà-bắc, bốn đời làm tam-công, có nhiều đầy tớ cũ; hiện nay là con hổ dữ hùng cứ ở Ký-châu; bộ hạ nhiều tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng.

Tháo lại cười nói:

- Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì lại quên mình, sao gọi là anh hùng?

Huyền-đức lại nói:

- Có một người nổi tiếng trong tám kẻ tuấn kiệt, uy khắp cả chín châu, là Lưu Cảnh-thăng, có thể cho là anh hùng?

Tháo lại cười:

- Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực tài, không phải anh hùng.

Huyền-đức lại nói:

- Có một người, sức lực đương khoẻ, đứng đầu xứ Giang-đông, là Tôn Bá-phù, hẳn là anh hùng?

Tháo nói:

- Tôn Sách nhờ danh tiếng của bố, không phải anh hùng.

Huyền-đức lại hỏi:

- Lưu Quý-ngọc ở Ích-châu có phải là anh hùng không?

Tháo nói:

- Lưu Chương, tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà, sao gọi là anh hùng được?

Huyền-đức lại nói:

- Như bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?

Tháo vỗ tay cười to:

- Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói làm gì!

Huyền-đức nói:

- Ngoài những người ấy ra, Bị thực không còn biết ai nữa.

Tháo nói:

- Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao bọc được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.

Huyền-đức mới hỏi:

- Ai có thể xứng đáng được như thế?

Tào Tháo lấy tay trỏ vào Huyền-đức, rồi lại trỏ vào mình nói rằng:

- Anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi.

Huyền-đức nghe nói, giật nẩy mình, cái thìa đôi đũa đương cầm ở tay, rơi cả xuống đất. Giữa lúc bấy giờ, cơn mưa u ám, có một tiếng sét thực dữ. Lưu Bị từ từ cúi xuống nhặt đũa và thìa, nói tảng rằng:

- Gớm ghê! Tiếng sét dữ quá!

Tháo cười hỏi rằng:

- Trượng phu cũng sợ sấm à!

Huyền-đức nói:

- Đức thánh ngày xưa gặp lúc sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt, huống chi là tôi đây sao lại không sợ?

Huyền-đức đã che đậy được hết cả việc mình giật mình đánh rơi cả thìa đũa khi nghe Tháo gọi mình là anh hùng.

Tháo thấy thế không ngờ gì Huyền-đức nữa.

Đời sau có thơ rằng:

Gượng vào hang hổ, tạm nương mình
Nói rõ anh hùng khó giấu quanh
Mượn tiếng sấm vang ra vẻ sợ
Tùy cơ ứng biến thật tài tình!

Giời mưa vừa xong, có hai người tay cầm bảo kiếm, xông vào tận hậu-viên, đến thẳng tận trước đình, lính canh ngăn lại không được. Tháo trông ra thì là Quan Vũ và Trướng Phi.

Nguyên là hai người ra ngoài thành săn bắn vừa về, nghe thấy Huyền-đức bị Trương Liêu, Hứa Chử mời đi, vội vàng chạy ngay đến tướng phủ dò xem việc gì. Thấy nói ở hậu viên sợ có xảy ra điều gì, nên hai người xông thẳng vào. Vào đến nơi thấy Huyền-đức đang ngồi uống rượu với Tào Tháo, hai người bèn cầm gươm đứng hầu.

Tháo hỏi:

- Hai người đi đâu?

Vân-trường thưa:

- Chúng tôi nghe thừa-tướng cùng anh tôi uống rượu, nên chúng tôi lại đây múa gươm để làm vui!

Tháo cười, nói rằng:

- Đây có phải cửa Hồng-môn đâu mà phải dùng đến Hạng Trang, Hạng Bá?

Huyền-đức cũng cười.

Tháo sai lấy rượu “để hai Phàn Khoái uống cho tan cơn sợ”.

Quan, Trương lạy tạ. Một lát tiệc tan, Huyền-đức cáo từ trở về.

Vân-trường nói:

- Anh làm chúng tôi sợ chết đi được!

Huyền-đức thuật lại chuyện đánh rơi đũa. Quan, Trương hỏi:

- Thế là ý làm sao?

Huyền-đức nói:

- Độ này ta chịu khó làm vườn cuốc đất, cốt là để cho Tào Tháo không nghi ta có chí lớn. Ai ngờ nó lại trỏ ngay vào ta mà bảo ta là anh hùng đời nay. Ta nghe nói rụng rời, đánh rơi cả đũa, lại sợ Tào Tháo ngờ, cho nên mượn cớ là sợ sét để che giấu đi.

Quan, Trương khen rằng:

- Anh thực là cao kiến!

Hôm sau Tào Tháo lại mời Lưu Bị đến uống rượu. Trong khi đương tiệc có người vào báo rằng:

- Mãn Sủng đi dò tin tức Viên Thiệu đã về.

Tháo gọi vào hỏi, Sủng trình rằng:

- Công Tôn-toản đã bị Viên Thiệu phá vỡ.

Huyền-đức vội vàng hỏi rằng:

- Xin cho biết rõ đầu đuôi làm sao?

Sủng nói:

- Tôn-toản đánh nhau với Thiệu không được, mới đắp thành chung quanh một vùng, trong dựng một cái lầu cao mười trượng, gọi là dịch-kinh, chứa ba mươi vạn hộc lúa để ăn giữ thành. Đôi khi, quân trong thành ra vào bị quân Thiệu rình bắt, quân trong xin ra cứu, Toản không cho ra, bảo rằng: “Nếu cứu một lần, lần sau có ai đánh nhau chỉ mong người đến cứu thì không cố chết mà đánh nữa”. Bởi thế lúc quân Thiệu đánh vào, quân Toản nhiều người ra hàng. Lúc Toản thế cô lắm có sai người đem thư đến Hứa-đô cầu cứu, không ngờ đi nửa đường lại bị quân Thiệu bắt được. Toản lại đưa thư cho Trương Yên, hẹn nhau đốt lửa làm hiệu, trong đánh ra ngoài đánh vào. Người mang thư lại bị Viên Thiệu bắt được nốt. Thiệu được thư ấy cứ như lời Toản hẹn với Yên, đốt lửa làm hiệu. Toản ở trong ngỡ là hiệu lửa của Trương Yên, mới tự ra đánh, không ngờ ra đến ngoài, bốn mặt quân phục nổi dậy. Quân mã của Toản mất quá nửa, còn non một nửa lui về để giữ thành, lại bị Viên Thiệu đào ngầm dưới đất, đem quân vào thẳng tận dưới lầu Toản ở, phóng hỏa đốt lầu, Toản không có đường chạy, trước giết vợ con, rồi tự thắt cổ chết, cả nhà cũng bị lửa cháy. Nay Viên Thiệu được cả quân của Toản, thanh thế to lắm. Em Thiệu là Viên Thuật ở Hoài-nam, kiêu ngạo, xa xỉ quá độ, không thương gì đến quân dân, cho nên chúng đều nổi loạn, Thuật nhường đế hiệu cho Viên Thiệu. Thiệu muốn lấy ngọc tỷ. Thuật hẹn xin tự đem đến. Hiện giờ Thuật muốn bỏ Hoài-nam về Hà-bắc. Nếu để hai người hợp sức với nhau, thì rất khó đánh được, xin thừa-tướng liệu trừ trước đi.

Huyền-đức nghe tin Công Tôn-toản đã chết, nghĩ đến ơn tiến mình ngày xưa, rất là thương xót, lại không biết Triệu Tử-long ở đâu, không đành dạ chút nào, nhân nghĩ vụng rằng: “Ta không nhân dịp này tìm kế thoát thân, còn đợi đến bao giờ?” liền đứng lên thưa với Tào Tháo rằng:

- Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải đi qua Từ-châu, tôi xin lĩnh một cánh quân đón đường đánh, chắc bắt được.

Tháo cười nói:

- Để ngày mai tâu vua, rồi sẽ khởi binh.

Hôm sau Huyền-đức vào tâu vua. Tào Tháo sai Huyền-đức đốc xuất năm vạn quân mã, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi. Lúc Huyền-đức vào từ vua, vua khóc tiễn đi.

Huyền-đức về nhà trọ, suốt đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến, đeo ấn tướng quân, đốc thúc để cho chóng. Đổng Thừa ra ngoài mười dặm tràng đình để tiễn. Huyền-đức nói:

- Xin quốc-cữu hãy yên tâm. Chuyến này tôi đi, tất có thể đáp lại ý muốn của ngài.

Thừa dặn rằng:

- Ông nên lưu tâm, chớ phụ lòng vua.

Hai người từ giã nhau.

Quan, Trương hai người ngồi trên ngựa bấy giờ mới hỏi anh rằng:

- Sao phen này anh đi vội vàng làm vậy?

Lưu Bị nói:

- Ta ở Hứa-đô như chim lồng cá lưới, chuyến này được đi như cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong lồng lưới nữa.

Nói xong, hai người thúc quân mã Chu Linh, Lộ Chiêu đi mau.

Bấy giờ ở Hứa-đô, Quách Gia và Trình Dục đi khám xét tiền lương vừa về, nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem binh sang Từ-châu, vội vàng vào bẩm rằng:

- Sao thừa-tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?

Tháo nói:

- Cho ra để chẹn đường Viên Thuật.

Dục nói:

- Lưu Bị còn giữ chức mục ở Dự-châu, chúng tôi xin thừa-tướng giết đi, thừa-tướng không nghe, nay lại cho đi cầm quân, thế là thả rồng xuống bể, đuổi hổ về rừng, sau này muốn trừ đi còn làm sao được nữa?

Quách Gia nói:

- Nếu thừa-tướng không giết Lưu Bị cũng chớ nên sai đi ra ngoài. Cổ nhân có nói rằng: “Một ngày thả giặc, để lo muôn đời”. Xin thừa-tướng xét lại.

Tháo nghe ra, liền sai Hứa Chử đem năm trăm quân đuổi theo gọi Lưu Bị về.

Hứa Chử vâng lệnh đi liền.

Huyền-đức đang đi, ở mặt sau bỗng thấy bụi mù, liền bảo với Quan, Trương rằng:

- Đây tất là quân Tào Tháo đuổi theo.

Nói rồi lập trại, đóng quân lại, sai Quan, Trương cầm binh khí đứng hai bên. Hứa Chử đến, thấy binh uy nghiêm chỉnh, bèn xuống ngựa vào trại, ra mắt Huyền-đức. Huyền-đức hỏi:

- Ông đến có việc gì?

Chử nói:

- Phụng mệnh thừa-tướng, mời tướng quân trở lại để thương nghị việc khác.

Huyền-đức nói:

- Tướng đã ở ngoài, mệnh lệnh của vua cũng có điều không phải vâng theo, huống chi tôi đã chầu vua, lại được vâng lời thừa-tướng mà đi. Nay không còn việc gì phải thương nghị nữa, xin ông trở về ngay bẩm lại với thừa-tướng cho tôi.

Hứa Chử nghĩ rằng:

- Thừa-tướng vốn đối đãi tử tế với Huyền-đức, nay không thấy dặn phải đánh nhau, vậy hãy đem lời Lưu Bị về bẩm lại, tùy ý ngài định đoạt.

Chử liền từ giã Huyền-đức về, vào hầu Tào Tháo, thuật lại lời của Huyền-đức. Tháo ngần ngại chưa quyết. Trình Dục, Quách Gia nói rằng:

- Lưu Bị không chịu đem quân trở lại, tất là đã thay lòng đổi dạ rồi.

Tháo nói:

- Ta đã sai Chu Linh, Lộ Chiêu đi theo kèm Lưu Bị, vị tất hắn đã dám sinh biến. Vả ta đã sai, không nên hối lại.

Bèn không đuổi theo Huyền-đức nữa.

Người sau có thơ rằng:

Gióng ngựa giục quân, lòng vội vã,
Nỗi lo canh cánh chiếu trong đai.
Hổ tung cũi sắt về rừng rậm,
Rồng phá then vàng, ra bể khơi...

Mã Đằng bấy giờ ở Hứa-đô, thấy Huyền-đức đã đi, ở châu mình lại có quân đến báo nhiều việc kíp, cho nên cũng về Lương-châu.

Huyền-đức đem binh đến Từ-châu, thứ-sử là Xa Trụ ra đón. Yến tiệc xong, lũ Tôn Càn, My Chúc đều lại yết kiến. Huyền-đức về nhà thăm vợ con, một mặt sai người dò xem tin tức Viên Thuật.

Thám tử vào báo:

- Viên Thuật xa xỉ quá độ. Tướng Thuật là Lôi Bạc, Trần Lan cũng bỏ Thuật về núi Tung-sơn; thế Thuật đã suy, Thuật phải đưa thư nhường đế hiệu cho Viên Thiệu và đương thu nhặt binh mã và các đồ cung cấm ngự-dụng, sắp đi qua Từ-châu.

Lưu Bị nghe Viên Thuật sắp đến, dẫn Quan, Trương và Chu Linh, Lộ Chiêu đem năm vạn quân ra đón đánh, thì vừa gặp tiên phong của Thuật là Kỷ Linh đến.

Trương Phi ra đánh nhau với Kỷ Linh mới được mươi hợp, liền thét lớn một tiếng, đâm chết Kỷ Linh ngã xuống chân ngựa. Quân lính thua chạy trốn cả. Thuật tự dẫn binh đến đánh. Huyền-đức chia quân làm ba đường. Chu Linh, Lộ Chiêu ở tả; Quan, Trương ở hữu, tự mình đứng trung quân, ra ngoài cửa cờ mắng Thuật rằng:

- Thằng phản nghịch vô đạo kia! Ta nay phụng chiếu ra đánh, mày nên tự trói tay lại hàng, ta sẽ tha cho khỏi chết.

Viên Thuật mắng lại rằng:

- Thằng dệt chiếu đóng dép kia! Sao mày dám khinh ta?

Nói xong đốc binh vào đánh. Huyền-đức tạm lui, cho quân tả hữu hai bên ra đánh, quân Thuật thây nằm khắp đồng, máu chảy thành sông, sĩ tốt trốn đi không biết bao nhiêu, lại bị Lôi Bạc, Trần Lan ở Tung-sơn ra cướp mất tiền nong lương thảo. Thuật muốn về Thọ-xuân, lại bị trộm cướp đến đánh tập hậu, phải đóng lại ở Giang-đình. Bấy giờ Thuật chỉ còn hơn một nghìn quân, toàn những người già yếu. Trời đang nóng nực, lương thực hết, chỉ còn ba mươi hộc lúa, phát cho quân sĩ, người nhà phải nhịn, chết đói nhiều. Thuật ăn cơm gạo xấu, không nuốt được, sai nhà bếp lấy mật ăn cho khỏi khát. Nhà bếp nói:

- Mật không có, chỉ có nước máu!

Thuật đương ngồi trên giường, kêu to một tiếng, đâm nhào xuống đất, thổ ra đến một chậu máu, rồi chết.

Bấy giờ là tháng sáu, năm thứ bốn, niên hiệu Kiến-an (199 công nguyên).

Người sau có thơ rằng:

Cuối Hán, binh đao nổi bốn phương,
Khéo đâu Viên Thuật cũng ngông cuồng!
Mấy đời không nghĩ nền công tướng
Chút phận hòng toan vị đế vương;
Tỉ-ngọc vào tay thêm ngạo ngược,
Điềm trời trước mắt, uổng khoe khoang.
Khát tìm mật uống tìm đâu thấy?
Thổ huyết nằm queo chẳng kẻ thương!

Viên Thuật chết rồi, cháu là Viên Dận đem hài cốt cùng vợ con Thuật chạy về Lư-giang, bị tên Từ Cầu giết sạch, cướp lấy ngọc-tỉ đem đến Hứa-đô dâng Tào Tháo. Tháo mừng lắm phong cho Từ Cầu làm thái-thú ở Cao-lăng. Từ bấy giờ ngọc-tỉ lại về tay Tào Tháo.

Huyền-đức thấy Viên Thuật đã chết, dâng biểu về triều đình, và đưa thư trình Tào Tháo biết, sai Chu Linh, Lộ Chiêu về Hứa-đô, còn bao nhiêu binh mã đều lưu lại để giữ Từ-châu, một mặt chiêu dụ những nhân dân lưu tán trở về an cư lạc nghiệp.

Chu Linh, Lộ Chiêu về Hứa-đô vào hầu Tào Tháo thuật lại việc Huyền-đức giữ binh mã. Tháo giận lắm muốn chém ngay hai người. Tuân Úc can rằng:

- Quyền ở Lưu Bị, hai người làm thế nào được.

Tháo mới tha tội cho hai người.

Úc lại bàn rằng:

- Thừa-tướng nên viết thư cho Xa Trụ, sai ở đó tìm cách trừ Lưu Bị.

Tháo nghe kế ấy, mật sai người đến bảo Xa Trụ. Trụ mời Trần Đăng đến bàn.

Đăng nói:

- Việc ấy thực dễ, nay Lưu Bị ra ngoài thành chiêu dụ nhân dân, không mấy ngày nữa sẽ về. Tướng quân nên phục quân dưới cửa cuốn ở ngoài thành, giả cách ra đón, đợi khi Lưu Bị cưỡi ngựa đến, chém cho một nhát, tôi thì ở trên thành bắn xuống để chặn hậu quân của Lưu Bị, thế là xong việc.

Trụ nghe theo kế ấy.

Trần Đăng về nói lại với bố là Trần Khuê. Khuê sai Đăng ra báo trước cho Huyền-đức biết. Đăng vừa ra khỏi thành gặp Quan Vũ, Trương Phi bèn nói chuyện cho hai người hay.

Nguyên là Quan, Trương về trước, Huyền-đức về sau. Trương Phi nghe nói, muốn chạy vào đánh ngay. Vân-trường ngăn lại nói rằng:

- Nó phục binh dưới cửa cuốn bên thành, nếu vào thì mắc mẹo nó. Ta có một kế giết được Xa Trụ; nhân ban đêm, ta giả làm quân Tào đến Từ-châu, Xa Trụ tất ra đón, ra đến nơi thì ta giết đi.

Phi chịu rằng phải.

Quân bộ hạ của Quan, Trương sẵn có cờ hiệu của Tào, y giáp cũng giống nhau, đang nửa đêm, đến ngay cửa thành gọi mở. Trên thành hỏi ai. Chúng thưa:

- Quân mã Trương Văn-viễn. Tào thừa-tướng sai đến.

Quân giữ thành vào báo với Trụ. Trụ mời Trần Đăng lại bàn rằng:

- Không ra đón thì sợ có chuyện nghi kỵ, ra đón lại sợ có chuyện lừa dối.

Trụ lên thành nói rằng:

- Đêm khuya khó phân biệt được thực hư, xin để sáng mai hãy mở cửa.

Ở dưới thành đáp rằng:

- Chỉ sợ Lưu Bị biết. Xin mở cửa mau.

Xa Trụ ngần ngừ chưa quyết, dưới thành thì cứ giục mở cửa mãi. Trụ đành phải mặc áo giáp lên ngựa, dẫn một nghìn quân mã ra ngoài thành. Đi khỏi cầu, Trụ gọi to rằng:

- Văn-viễn ở đâu?

Trong bóng lửa sáng thấy ngay Vân-trường cầm đao tế ngựa lại, xông thẳng vào Xa Trụ thét rằng:

- Thằng kia! Sao dám lừa dối muốn hại anh tao?

Trụ giật mình, đánh chưa được vài hợp, chống đỡ không nổi, quay ngựa chạy về. Chạy đến đầu cầu, Trần Đăng ở trên thành bắn tên xuống như mưa. Vân-trường xấn lại, phất long đao một nhát chém Trụ ngã lăn xuống đất rồi chặt lấy đầu, quay mặt vào thành giơ đầu Trụ lên hô rằng:

- Phản tặc là Xa Trụ ta đã giết rồi. Quân sĩ không có tội, hàng thì tha cả.

Quân sĩ đều cầm ngược khí giới, xin hàng. Từ ấy quân dân đều được yên ổn cả.

Vân-trường mang đầu Xa Trụ lại đón Huyền-đức nói rằng:

- Xa Trụ muốn mưu hại anh, nay đã giết được rồi.

Huyền-đức thất kinh nói rằng:

- Tháo nó lại, thì làm thế nào?

Vân-trường nói:

- Hễ nó lại, thì hai em xin ra đánh chớ sao!

Huyền-đức ân hận mãi, rồi vào Từ-châu. Các cụ già và trăm họ đón rước đầy đường. Lưu Bị đến phủ, tìm Trương Phi, thì Trương Phi đã bắt cả nhà Xa Trụ đem giết rồi. Huyền-đức giận nói:

- Giết mất người tâm phúc của Tháo, sao nó chịu thôi?

Trần Đăng nói:

- Tôi có một kế, có thể lui được Tào Tháo.

Thế thực là:

Cô thân đã thoát ra hang hổ
Diệu kế còn toan rập khói lang[1]

Chưa biết Trần Đăng bàn kế gì, xem đến hồi sau sẽ rõ.

  1. Khói lang: phân lang sói phơi khô, đốt lên, khói đặc khó tan, thời cổ dùng để làm lửa hiệu trong chinh chiến. Sau dùng khói lang để chỉ loạn binh.