Tam quốc diễn nghĩa (Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỷ hiệu đính)/Hồi 110

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI

Văn Ương một ngựa thoái quân hùng
Bá-ước men sông phá giặc lớn

Vô-kỳ Kiệm tên tự là Trọng-văn, người ở làng Văn-hỷ, trấn Hà-nam, hiện đang làm trấn đông tướng quân, lĩnh quân mã ở Hoài-nam. Khi ấy nghe tin Tư-mã Sư tự chuyên làm việc phế lập, trong bụng căm tức lắm. Có người con cả là Vô-kỳ Điện nói với cha rằng:

- Phụ thân làm quan tổng trấn một địa phương. Tư-mã Sư chuyên quyền bỏ chúa, nhà nước ngất nghểu như trứng để đầu đẳng, sao lại ngồi yên một chỗ cho đành!

Kiệm nói:

- Con nói phải lắm!

Liền cho mời thứ sử Văn Khâm đến thương nghị. Khâm nguyên cũng là khách môn hạ của Tào Sảng. Thấy Kiệm mời, Khâm lập tức đến yết kiến. Kiệm mời vào nhà sau, trò chuyện một hồi, bỗng dưng nước mắt ròng ròng.

Khâm hỏi cớ làm sao, Kiệm nói:

- Tư-mã Sư chuyên quyền bỏ chúa, trời đất nghiêng ngửa, trách nào tôi chả thương tâm.

Khâm nói:

- Đô đốc trấn thủ một phương, nếu bằng trọng nghĩa đánh giặc, tôi xin liều bỏ một thân, để giúp đỡ đô đốc. Tôi có con thứ hai tên là Văn Thục, tự là A nương, có sức khỏe địch muôn người, thường vẫn muốn giết anh em Tư-mã Sư, để báo thù cho Tào Sảng, nên sai hắn làm tiên phong.

Kiệm mừng lắm, tức thì rót rượu ăn thề. Hai người nói dối thái hậu có mật chiếu, hội cả quan binh tướng sĩ lớn nhỏ vào trong thành Thọ-xuân, lập một đàn ở mé tây, mổ ngựa trắng uống máu ăn thề, nói phao lên rằng Tư-mã Sư đại nghịch vô đạo, nay phụng mật chiếu của thái hậu sai khởi quân Hoài-nam để đánh giặc.

Chúng đều bằng lòng xin theo. Kiệm mới dẫn sáu vạn quân ra đóng ở Hạng-thành. Văn Khâm thì dẫn hai vạn quân đi lại vòng ngoài tiếp ứng các nơi. Kiệm đưa hịch cho các quận, sai khởi quân giúp đỡ.

Bấy giờ Tư-mã Sư có cái bướu bên mắt tả, thường thường đau ngứa khó chịu, sai quan thầy thuốc cắt đi rịt thuốc vào, mấy bữa ở luôn trong phủ dưỡng bệnh. Sực nghe tin Hoài-nam cáo cấp, Sư liền cho mời thái úy Vương Túc đến thương nghị.

Túc nói:

- Khi xưa Quan Vân-trường uy thế lừng lẫy, Tôn Quyền sai Lã Mông úp lấy Kinh-châu, chỉ có phủ tuất các gia tướng sĩ mà quân Quan-công phải tan vỡ. Nay gia thuộc các tướng sĩ Hoài-nam ở cả trung-nguyên, nên kíp vỗ về yên ủi họ, lại mang quân ra chặn đường về, thì quân giặc tất phải vỡ cả.

Sư nói:

- Lời ông phải lắm. Nhưng ta mới cắt cái bướu mắt, không thể đi được; mà sai người khác đi, thì không yên tâm, làm thế nào?

Bấy giờ, có trung thư thị lang là Chung Hội, đứng bên cạnh, tiến lên nói rằng:

- Quân Hoài Sở mạnh mẽ, sắc sảo lắm. Nếu sai người khác lĩnh quân đi, thường hay bất lợi. Nếu sơ suất, thì việc to hỏng mất.

Sư vùng đứng dậy nói rằng:

- Phi ta đi không phá được giặc!

Bèn lưu em là Tư-mã Chiêu ở lại giữ Lạc-dương, coi xét triều chính. Sư ngồi một chiếc xe đệm lót êm ái, gượng bệnh ra đánh mặt đông; sai trấn đông tướng quân là Gia-cát Đản tổng đốc quân mã ở Dự-châu, tự bến An-phong sang lấy Thọ-xuân. Lại sai chinh đông tướng quân Hồ Tuân lĩnh các đạo quân Thanh-châu, ra lối Tiêu-tống, bịt đường giặc về; cử thứ sử Dự-châu kiêm giám quân là Vương Cơ lĩnh quân tiền bộ, trước hết đến lấy đất Trấn-nam. Sư dẫn đại quân đóng ở Tương-dương, tụ văn võ lại thương nghị.

Quang lộc huân là Trịnh Bao nói rằng:

- Vô-kỳ Kiệm giỏi mưu mà không quyết đoán, Văn Khâm có khỏe mà kém trí khôn. Nay quân ta mới ra đây, quân Giang Hoài thế còn đang mạnh, chưa nên khinh địch vội; hãy nên thành cao hào sâu, để nén bớt nhuệ khí của họ đi. Đó là mẹo hay của á phụ ngày xưa đấy.

Giám quân Vương Cơ nói rằng:

- Không nên giữ! Xứ Hoài-nam làm phản, không phải tự quân dân mong loạn. Chỉ vì Vô-kỳ Kiệm bức bách mà phải theo. Nếu quân ta đến đánh, tất tan ngay như ngói vỡ.

Sư nói:

- Ngươi nói phải lắm!

Bèn tiến quân lên đóng trên sông Ân-thủy, trung quân thì đóng tại cầu sông Ẩn.

Vương Cơ nói rằng:

- Thành Nam-đốn đóng quân được; ta nên dẫn quân đến đó cho mau, nếu chậm thì Vô-kỳ Kiệm chiếm mất.

Sư cho ngay Vương Cơ dẫn tiền bộ đến thành Nam-đốn hạ trại.

Vô-kỳ Kiệm ở Hạng-thành, nghe tin Tư-mã Sư tự dẫn quân đến, hội chúng lại thương nghị.

Tiên phong là Cát Ung nói rằng:

- Đất Nam-đốn dựa núi men sông là chỗ đóng quân rất tốt. Nếu quân Ngụy chiếm trước được, thì ta khó lòng cự nôi, nên đến mà lấy cho mau.

Khi đang đi, có ngựa lưu tinh về báo rằng:

- Nam-đốn đã có quân mã hạ trại rồi.

Kiệm không tin, thân đến trước quân đứng xem; quả nhiên thấy tinh kỳ rợp đất, dinh trại chỉnh tề. Kiệm trở về trung quân, không nghĩ ra kế gì.

Sực lại có tiễu mã phi báo rằng:

- Tôn Tuấn bên Đông Ngô, cầm quân sang sông muốn úp Thọ-xuân.

Kiệm giật mình nói rằng:

- Nếu mất Thọ-xuân, thì ta về đâu bây giờ?

Đêm hôm ấy, Kiệm rút quân về Hạng-thành.

Tư-mã Sư thấy Vô-kỳ Kiệm rút lui, hội các quan lại thương nghị.

Thượng thư Phó Hỗ nói rằng:

- Vô-kỳ Kiệm có ý lo quân Ngô cướp mất Thọ-xuân, cho nên rút quân về Hạng-thành, chia binh ra giữ. Tướng quân nên một mặt đến lấy thành Lạc-gia, một mặt lấy Hạng-thành, một mặt lấy Thọ-xuân. Như thế thì quân Hoài-nam tất phải lui cả, Thứ sử Duyện-châu là Đặng Ngải lắm mưu nhiều trí, nên cho lĩnh binh đến lấy Lạc-gia; ta lại cho đại binh đến tiếp ứng, thì phá giặc không khó gì nữa.

Đặng Ngải. Tranh minh họa đời Thanh.

Sư nghe lời, sai sứ cầm hịch ra sai Đặng Ngải khởi quân Duyện-châu, đến phá thành Lạc-gia. Sư cũng dẫn quân đến đấy hội hợp.

Vô-kỳ Kiệm ở trong Hạng-thành, lo quân giặc đến đánh thành Lạc-dương, bèn mời Văn Khâm vào trại thương nghị.

Khâm nói:

- Đô đốc chớ lo. Tôi xin cùng với con tôi là Văn Ương, chỉ năm nghìn quân, quyết giữ được thành Lạc-gia vững vàng.

Kiệm mừng lắm, sai cha con Văn Khâm dẫn năm nghìn quân ra Lạc-gia. Văn Khâm lĩnh mệnh kéo quân đi.

Tiền quân báo rằng:

- Mé tây thành Lạc-gia, ước chừng có hơn một vạn quân Ngụy. Trong đám trung quân có mao trắng việt vàng, lọng đen phớn đỏ; trong hổ trướng dựng lá cờ vóc thêu một chữ Súy, đấy tất là Tư-mã Sư. Hiện họ đang lập trại chưa xong.

Bấy giờ Văn Ương đeo một thanh quất đứng cạnh cha; nghe tin ấy, Ương nói với cha rằng:

- Nhân lúc dinh trại của nó chưa xong, nên chia quân làm hai đường đến đánh luôn đi, chắc là được.

Khâm hỏi:

- Lúc nào nên đi?

Ương nói:

- Chiều tối hôm nay, phụ thân dẫn hai nghìn rưởi quân từ mé thành nam đánh đến; con dẫn hai nghìn rưởi quân, từ mé thành bắc đánh lại; vào canh ba, hội nhau ở trại Ngụy.

Khâm nghe lời. Chiều hôm ấy. Khâm chia quân làm hai mặt kéo đi. Văn Ương bấy giờ mới mười tám tuổi, mình dài tám thước, nai nịt gọn ghẽ, lưng đeo một thanh quất đồng, tay cầm ngọn giáo, cưỡi ngựa đến trại Ngụy.

Đêm hôm ấy, Tư-mã Sư dẫn quân đến Lạc-gia, lập dinh trại, đợi quân Đặng Ngải chưa thấy đến. Sư nhân mới cắt cái bướu trên mắt, đau đớn không chịu được, phải nằm trong trướng, sai vài trăm giáp sĩ, hộ vệ quanh mình. Vào độ canh ba, bỗng nhiên thấy trong trại nổi reo, người ngựa xốn xáo. Sư kíp cho người ra hỏi xem việc gì, thì quân báo có một toán quân tự mé bắc trại chém hàng rào kéo quân vào, đại tướng đi đầu khỏe mạnh, không ai đương nổi. Sư kinh hãi quá chừng, lòng nóng như lửa đốt; con ngươi từ trong cái bướu bật nổ ra ngoài, máu chảy tóe ra khắp đất, đau nhức không thể nào chịu được. Nhưng sợ nôn nao lòng quân. Sư phải trùm chăn lên đầu, cắn răng mà chịu.

Quân mã Văn Ương kéo vào trong trại, xông pha tả hữu, không ai dám cự. Có ai ra đánh, phi bị giáo đâm chết thì quất đánh ngã, không người nào đương nổi. Ương mong mỏi cha đến làm nội ứng, nhưng mãi không thấy. Mấy phen đánh vào trung quân cùng bị cung bắn lộn trở ra. Ương đánh mãi đến lúc trời gần sáng, mới thấy trống đánh còi rúc rầm rĩ, tự mặt bắc kéo đến.

Ương ngảnh lại bảo tả hữu rằng:

- Phụ thân ta không từ mặt nam đánh lại, lại từ mặt bắc đánh đến là cớ làm sao?

Ương thúc ngựa ra ngoài trông xem, thì thấy một toán quân xồng xộc lướt đến, nhanh như gió bay. Tướng đi đầu té ra là Đặng Ngải.

Ngải cầm ngang lưỡi đao, thúc ngựa xông vào quát to lên rằng:

- Phản tặc chớ chạy!

Ương nổi giận, đưa giáo ra đánh nhau. Hai bên giao chiến năm chục hợp, chưa phân thắng phụ, thì quân Ngụy đã kéo ùa cả vào, vây bọc trước sau mà đánh. Thủ hạ của Văn Ương chạy trốn sạch, Ương chỉ còn trơ một mình một ngựa, đánh rẽ đôi đám quân Ngụy, chạy về phía nam. Tướng Ngụy hơn trăm viên hăm hở đuổi theo. Đuổi mãi đến cầu Lạc-gia, dần dần kịp, Ương quay ngựa lại quát to một tiếng, xông thẳng vào trong đám tướng Ngụy, vung quất đánh lộn bậy một lúc. Tướng Ngụy nhao nhao ngã ngựa, còn người nào phải rút lui cả. Ương buông lỏng cương ngựa, lững thững lại đi.

Tướng Ngụy tụ lại một chỗ, bàn với nhau rằng:

- Chúng ta lại góp sức mà đuổi, xem người này có thể đánh đổ được chúng ta nữa không?

Bởi vậy các tướng Ngụy lại xô đến đuổi.

Ương nổi giận bừng bừng nói rằng:

- Đàn chuột kia! Sao không biết tiếc thân thể?

Ương lại cầm quất quay ngựa lại xông vào trong đám tướng Ngụy, quật chết vài người, rồi quay ngựa đi thư thả. Tướng Ngụy đuổi luôn bốn năm phen, đều bị Văn Ương đánh lùi lại.

Có thơ khen rằng:

Tràng-bản khi xưa cự giặc Tào,
Tử-long nổi tiếng bực anh hào.
Một roi đánh đổ hơn trăm tướng,
Gân sức Văn Ương mới lạ sao!

Văn Khâm bị phải đường núi quanh co, đi lạc vào trong hang, mất một nửa đêm, khi tìm được lối ra, thì trời đã sáng. Khâm không thấy quân mã của Văn Ương đâu, chỉ thấy quân Ngụy đã thắng trận rồi. Bởi thế, Khâm không dám đánh nhau, phải rút quân về. Quân Ngụy thừa thế đuổi đánh. Văn Khâm dẫn quân chạy về thành Thọ-xuân.

Đây nói Điện trung hiệu úy nước Ngụy là Doãn Đại-mục nguyên là người tâm phúc với Tào Sảng; vì Sảng bị Tư-mã Ý giết, Đại-mục mới thù Tư-mã Sư; Đại-mục thường vẫn có bụng báo thù cho Sảng, và lại chơi thân với Văn Khâm. Nay thấy Tư-mã Sư bật nổ con ngươi, đứng ngồi không yên, Đại-mục có ý muốn nhân dịp ra bảo Văn Khâm ở lại để đồ Tư-mã Sư, mới vào nói với Tư-mã Sư rằng:

- Văn Khâm vốn không có bụng làm phản, vì bị Vô-kỳ Kiệm bức bách mới đến nỗi thế. Tôi xin ra dụ, tất nhiên y lại hàng.

Sư cho đi dụ, Đại-mục mặc áo giáp, đội mũ, cưỡi ngựa chạy theo Văn Khâm, gọi to lên rằng:

- Văn thứ sử có thấy Doãn Đại-mục không?

Khâm ngảnh đầu lại trông, Đại-mục cởi mũ để trên yên ngựa, cầm roi trỏ sang bảo rằng:

- Văn thứ sử sao không hãy chịu khó ở lại vài ngày?

Đại-mục nói câu ấy vì biết rằng Tư-mã Sư sắp chết, có ý muốn bảo Văn Khâm ở lại mà đánh. Khâm không hiểu ý, tưởng là đến dụ mình, mới quát to mắng lại, định giương cung bắn ra. Đại-mục không sao được, khóc rầm lên rồi trở về.

Văn Khâm thu quân về Thọ-xuân, thì đã bị Gia-cát Đản dẫn quân lấy mất thành rồi; toan trở về Hạng-thành, lại bị Hồ Tuân, Vương Cơ, Đặng Ngải ba mặt dồn lại đánh. Khâm thấy thế nguy lắm, mới sang hàng với Tôn Tuấn ở Đông Ngô.

Vô-kỳ Kiệm ở trong Hạng-thành, nghe tin Thọ-xuân đã mất, Văn Khâm lại bại trận, mà quân mã ba mặt kéo đến nơi rồi. Kiệm mang hết cả quân trong thành ra đánh vừa gặp quân Đặng Ngải đến. Kiệm sai Cát Ung ra ngựa giao chiến với Đặng Ngải, chưa được một hợp, Ung đã bị Ngải chém chết. Rồi Ngải dẫn quân đánh thốc vào trận. Vô-kỳ Kiệm cố chết cự lại. Hồ Tuân, Vương Cơ lại dẫn binh áp đến đánh, Kiệm giữ không nổi, dẫn hơn chục tên kỵ mã tháo đường chạy. Đến dưới thành Thận-huyện, quan huyện ở đấy là Tống Bạch mở cửa thành tiếp vào, mở tiệc khoản đãi. Kiệm say quá, Bạch sai người giết chết, rồi đem đầu đến nộp quân Ngụy. Từ đó Hoài-nam lại bình định cả.

Tư-mã Sư đau mắt mãi không bớt, bèn gọi Gia-cát Đản vào trướng, ban cho ấn thụ, gia phong làm chinh đông đại tướng quân, đô đốc cả quân mã các mặt Dương-châu. Sư thì rút quân về Hứa-xương.

Tư-mã Sư mỗi đêm lại mơ thấy Lý Phong, Trương Thấp, Hạ-hầu Huyền đứng ở trước giường mình.

Tâm thần hoảng hốt, Sư biết mình không sống được bao lâu nữa, bèn sai người về Lạc-dương gọi em là Tư-mã Chiêu đến. Chiêu đến nơi, khóc lạy ở dưới giường.

Sư giối giăng lại rằng:

- Nay quyền ta nặng quá, dẫu muốn cởi ra cho nhẹ mình, cũng không được nữa. Em nối nghiệp anh, phàm việc gì lớn, chớ coi thường mà vạ to đến cả họ đấy!

Nói đoạn, giao ấn thụ cho em, nước mắt giàn ra đầy mặt. Chiêu muốn hỏi câu nữa, thì Sư chỉ kêu to được một tiếng, rồi bật nổ một con ngươi nữa mà chết. Bấy giờ là tháng hai, năm Chinh-nguyên thứ hai.

Tư-mã Chiêu phát tang, tâu về Ngụy chủ Tào Mao. Mao sai sứ mang chiếu đến Hứa-xương, sai Tư-mã Chiêu tạm đóng quân mã ở lại Hứa-xương, để phòng Đông Ngô vào cướp.

Chiêu trong bụng ngần ngại, chưa biết nghĩ thế nào.

Chung Hội nói:

- Đại tướng quân mới mất, nhân tâm chưa yên, nếu lưu lại ở đây, vạn nhất trong triều có biến, thì hối làm sao cho kịp?

Chiêu nghe lời, lập tức cất quân về đóng mé nam sông Lạc-thủy.

Tào Mao nghe tin giật mình.

Thái úy là Vương Thúc tâu rằng:

- Tư-mã Chiêu đã kế nghiệp anh, giữ quyền lớn. Bệ hạ nên phong tước cho yên bụng hắn.

Mao sai Vương Thúc cầm chiếu ra phong cho Tư-mã Chiêu làm đại tướng quân, xét việc thượng thư.

Chiêu vào chầu tạ ân. Từ đó công việc lớn nhỏ trong ngoài, lại về cả tay Tư-mã Chiêu.

Quân tế tác bên Thục dò được tin ấy, báo về Thành-đô. Khương Duy vào tâu với hậu chủ rằng:

- Tư-mã Sư mới chết, Tư-mã Chiêu vừa lên cầm quyền to, không dám rời khỏi đất Lạc-dương. Vậy tôi xin nhân dịp này đánh Ngụy để đem lại trung nguyên.

Hậu chủ cho Khương Duy cất quân sang đánh Ngụy. Duy phụng mệnh đến Hán-trung, chỉnh đốn quân mã để đi. Chinh tây đại tướng quân là Trương Dực can rằng:

- Đất Thục nhỏ hẹp, tiền lương ít ỏi, không nên đi đánh xa mãi. Chi bằng yên phận thủ hiểm, thương quân yêu dân, đó là kế giữ nước đấy.

Duy nói:

- Không phải lẽ thế! Ngày xưa, thừa tướng chưa ra khỏi lều tranh, đã biết thiên hạ chia ba rồi, thế mà còn sáu lần ra Kỳ-sơn, để đồ lấy trung nguyên; chẳng may nửa đường ngài mất sớm, đến nỗi công nghiệp không thành. Nay ta chịu di mệnh của thừa tướng, nên phải hết lòng báo nước, để nối cái chí của ngài, dù chết cũng không oán hận gì. Nay nước Ngụy có chỗ sơ hở, không nhân dịp này mà đánh, còn đợi bao giờ?

Hạ-hầu Bá nói:

- Tướng quân nói chí phải! Nay nên cho quân khinh kỵ ra trước xứ Bào-hãn. Nếu lấy được Thao-tây, Nam-an, thì các quận định được cả.

Trương Dực nói:

- Trước kia đánh không được phải trở về, là bởi ra quân chậm quá. Binh pháp có nói: "Đánh nơi không phòng bị, ra chỗ bất tình cờ". Nay bằng hỏa tốc tiến binh, khiến cho quân Ngụy không kịp đề phòng, thì mới có thể thắng được.

Bởi thế, Khương Duy dẫn quân kéo ra đường Bào-hãn. Khi quân đến Thao-thủy, thứ sử Ung châu là Vương Kinh, phó tướng quân Trần Thái khởi bảy vạn mã bộ đến cự nhau với quân Thục.

Khương Duy gọi Trương Dực, Hạ-hầu Bá vào dặn dò mẹo mực, cho hai tướng kéo quân đi; rồi tự dẫn đại quân dựa lưng vào sông Thao-thủy dàn trận.

Vương Kinh dẫn vài viên nha tướng ra trước cửa trận hỏi rằng:

- Ngụy với Ngô, Thục, đã thành ra thế chân vạc rồi, ngươi còn luôn luôn vào ăn cướp, là cớ làm sao?

Duy đáp:

- Tư-mã Sư bỗng dưng dám bỏ chúa, nước láng giềng còn đến hỏi tội, huống chi lại là nước thù địch xưa nay!

Kinh ngảnh lại bảo với bốn tướng là Trương Minh, Hoa Vĩnh, Lưu Đạt, Chu Phương rằng:

- Quân Thục dựa lưng bờ sông dàn trận, nếu thua thì tất lăn cả xuống sông mà chết. Khương Duy khỏe lắm, bốn các ngươi nên kéo cả ra mà đánh. Quân kia nếu bằng lui một chút, thì nên đánh dấn vào.

Bốn tướng chia làm hai bên kéo ra đánh Khương Duy. Duy đánh qua vài hợp, quay ngựa chạy về bản trận. Vương Kinh thúc quân mã kéo ùa cả đến. Duy dẫn binh chạy về Thao-tây. Khi gần đến bờ sông, Duy kêu to lên rằng:

- Việc đã kíp rồi, các tướng sao không cố sức mà đánh?

Các tướng nhất tề hăng sức đánh quay trở lại. Quân Ngụy đương không nổi. Trương Dực, Hạ-hầu Bá lẻn ra mé sau đánh ập đến, vây bọc cả quân Ngụy vào giữa trận. Duy hăng hái đánh giết, xông xáo ngược xuôi. Quân Ngụy xô bồ xéo lẫn nhau, lăn xuống sông chết rất nhiều; lại bị quân Thục chém chết hơn một vạn, thây nằm ngổn ngang vài dặm.

Vương Kinh dẫn hơn trăm kỵ hết sức đánh ra, chạy về thành Địch-đạo, đóng cửa giữ vững không dám ra nữa.

Khương Duy được to, khao quân đâu đấy, muốn tiến binh đến đánh thành Địch-đạo.

Trương Dực can rằng:

- Công trạng tướng quân đã thành rồi, uy danh lừng lẫy, cũng nên thôi đi. Nay bằng lại tiến binh, phỏng có điều gì bất như ý, thì lại hóa ra vẽ rắn thêm chân mất.

Duy nói:

- Trước kia thua trận ta còn muốn tiến lên tung hoành trung nguyên, huống chi nay một trận đánh ở Thao-thủy, quân Ngụy mất vía. Ta đồ thành Địch-đạo chớp mắt là lấy xong, ngươi chớ nên ngã lòng làm vậy.

Trương Dực khuyên can hai ba lần. Duy nhất định không nghe, cứ việc dẫn quân đến hạ thành Địch-đạo.

Chinh tây tướng quân ở Ung-châu là Trần Thái sắp muốn cất quân đến báo thù cho Vương Kinh, sực có thái sử Duyện-châu là Đặng Ngải dẫn quân đến. Trần Thái ra tiếp vào. Thi lễ đâu đấy, Ngải nói:

- Nay tôi phụng mệnh đại tướng quân, lại đây giúp tướng quân phá giặc.

Trần Thái hỏi kế phá giặc. Ngải nói:

- Trận được ở Thao-thủy, nếu Khương Duy triệu người Khương đến, sang mặt đông tranh xứ Quan-lũng, truyền hịch ra bốn quận, thì quân ta rầy to. Nay y không nghĩ đến thế, muốn đồ thành Địch-đạo. Thành này tường gạch kiên cố khó lòng phá đổ, đánh chỉ nhọc sức mà thôi. Nay ta dàn quân ở núi Hạng-lĩnh, rồi sẽ tiến binh lên đánh, thì tất phá được quân Thục.

Thái nói:

- Ông bàn thế mới thực là diệu kế!

Bèn chia hai chục đội quân, mỗi đội năm chục người, đem các đồ tinh kỳ, còi trống, đồ đốt lửa, ngày nấp đêm đi, ra mé đông nam thành Địch-đạo, tìm nơi hang hẻm núi sâu mai phục, đợi khi quân Thục đến, ngày thì đánh trống thổi còi, đêm thì đốt lửa nổ pháo cho quân Thục phải kinh mà chạy. Thái sai khiến đâu vào đấy, chỉ đợi quân Thục đến. Trần Thái, Đặng Ngải mỗi người dẫn hai vạn quân tiến lên sau.

Nói về Khương Duy ở thành Địch-đạo, sai quân bổ vây tám mặt, đánh luôn mấy hôm không đổ. Duy trong bụng buồn rầu, chưa nghĩ được kế gì. Chiều tối hôm ấy, sực có ngựa lưu tinh chạy về bốn năm thứ báo rằng:

- Có hai mặt quân kéo đến, trên cờ hiệu một mặt đề là chinh tây tướng quân Trần Thái, một mặt đề là Duyện châu thứ sử Đặng Ngải.

Duy giật mình, mời Hạ-hầu Bá vào thương nghị.

Bá nói:

- Trước tôi đã nói với tướng quân rằng Đặng Ngải từ thuở nhỏ đã giỏi binh pháp, tinh địa lý, nay hắn lĩnh binh đến đây, thực là tay kình địch.

Duy nói:

- Quân kia tự xa mới đến, không nên để cho họ lập trại vững vàng, phải đánh ngay đi.

Bèn để Trương Dực ở lại đánh thành, sai Hạ-hầu Bá dẫn quân ra đánh Trần Thái. Duy tự dẫn quân ra đón Đặng Ngải.

Duy dẫn quân đi chưa được năm dặm, bỗng ở mé đông nam có một tiếng pháo nổ, rồi thấy còi trống vang đất, lửa sáng rực trời. Duy quất ngựa ra xem sao, thì thấy chung quanh toàn là cờ hiệu nước Ngụy.

Duy giật mình nói rằng:

- Ta mắc phải mẹo rồi!

Liền truyền lệnh cho Hạ-hầu Bá, Trương Dực phải bỏ Địch-đạo mà lui về. Bởi thế quân Thục rút cả về Hán-trung. Duy tự dẫn quân đoạn hậu. Nghe thấy sau lưng trống đánh cấp quá, Duy vội vàng rút hết quân về cửa Kiếm-các. Khi về tới nơi, mới biết rằng hơn hai chục chỗ đánh trống đốt lửa, toàn là làm giả thanh thế, kỳ thực không có quân đuổi theo.

Duy thu quân đóng ở Chung-đê.

Hậu chủ nhân Khương Duy có công thắng trận Thao-tây, bèn giáng chiếu phong cho Duy làm đại tướng quân. Duy chịu chức, dâng biểu tạ ân đâu đấy, lại thương nghị việc cất quân sang đánh Ngụy.

Đó là:

Thành công lọ phải thêm chân rắn,
Đánh giặc còn mong gắng sức hùm.

Chưa biết phen này Khương Duy đánh Ngụy được thua thế nào, sẽ xem hồi sau phân giải.