Tam quốc diễn nghĩa (Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỷ hiệu đính)/Hồi 76

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ BẢY MƯƠI SÁU

Từ Công-minh đánh đến sông Miện-thủy
Quan Vân-trường thua chạy ra Mạch-thành

My Phương nghe tin Kinh-châu đã mất, đang không biết nghĩ ra làm sao, chợt có tin Phó Sĩ-nhân đến. Phương ra thành tiếp vào. Phương hỏi chuyện thì Sĩ-nhân nói rằng:

- Tôi không phải là không trung đâu, nay thế nguy, sức yếu, không sao địch nổi lại được, nên tôi đã hàng với Đông Ngô rồi, tướng quân cũng nên hàng đi cho sớm.

Phương nói:

- Chúng ta đội ơn Hán-trung vương nhiều lắm, sao nỡ bỏ mà theo hàng người khác?

Sĩ-nhân nói:

- Khi Quan-công ra đi, tức giận chúng ta lắm, nếu một mai thắng trận trở về, chắc không tha thứ cho đâu, ông thử nghĩ kỹ xem!

Phương nói:

- Anh em tôi thờ Hán-trung vương đã lâu, bỗng chốc bỏ mà đi làm sao cho đành!

Đang khi trò chuyện, thì có sứ giả của Quan-công sai đến. Phương ra tiếp vào.

Sứ giả nói:

- Quân sĩ ở ngoài Phàn-thành thiếu lương, Quan-công cho về Nam-quận và Công-an, thúc hai sứ phải tải ngay mười vạn gánh gạo đến, hễ chậm chạp thì chém lập tức.

Phương giật mình nói rằng:

- Nay Kinh-châu đã bị Đông Ngô lấy mất rồi, kiếm đâu cho được mười vạn gánh gạo bây giờ?

Sĩ-nhân quát lên rằng:

- Bất tất phải hồ nghi cho lắm!

Nói xong, rút ngay gươm ra chém chết sứ giả.

Phương kinh hoảng, nói:

- Ông định làm sao bây giờ?

Sĩ-nhân nói:

- Quan-công làm như thế, chính là cố ý muốn giết chúng ta, lẽ đâu ta ngồi chắp tay mà chịu chết? Nếu ông không sớm hàng Đông Ngô, tất không khỏi chết về tay Quan-công.

Đang khi ấy thì Lã Mông dẫn quân đến ngoài thành. Phương giật mình, liền cùng Sĩ-nhân ra thành chịu hàng.

Mông mừng lắm, dẫn Phương đến ra mắt Tôn Quyền. Quyền trọng thưởng cho hai người, yên dân đâu đấy, mở tiệc khao thưởng ba quân.

Khi ấy Tào Tháo ở Hứa-đô, đang cùng với bọn mưu sĩ bàn việc Kinh-châu. Sực có tin sứ giả Đông Ngô mang thư đến. Tháo gọi vào, sứ giả trình thư lên. Tháo mở xem, trong thư nói rõ quân Ngô sắp đánh úp Kinh-châu, xin Tháo tiến binh đến để giáp hai mặt lại đánh Vân-trường, và dặn đừng nói tiết lộ ra ngoài, sợ Vân-trường biết mà phòng bị trước.

Tháo bàn với các mưu sĩ. Chủ bộ là Đổng Chiêu nói rằng:

- Nay Phàn-thành bị khốn, quân sĩ nóng lòng chờ cứu viện. Ta nên đem thư bắn vào trong thành, nói rõ như thế, cho yên lòng quân; vả lại, để cho Quan-công biết rằng Đông Ngô sắp úp Kinh-châu, y tất phải rút quân về, bấy giờ ta sẽ thừa cơ đánh ập lại, quyết nhiên là được.

Tháo nghe kế ấy, một mặt thúc Từ Hoảng đánh cho mau, một mặt tự mình dẫn đại quân đi tắt đường Lạc-dương đến gò Dương-lục để cứu Tào Nhân.

Từ Hoảng đang ở trong trướng, thấy có sứ giả đến, bèn tiếp vào trong trại, hỏi có việc gì. Sứ giả nói:

- Ngụy vương đã dẫn quân qua Lạc-dương rồi, sai tướng quân đánh ngay Vân-trường để cứu Phàn-thành.

Lại có thám mã về báo rằng:

- Quan Bình đóng binh tại Yển-thành; Liêu Hóa đóng đồn ở Tứ-chủng, trước sau cả thảy mười hai trại, nối liền với nhau dài lắm.

Hoảng lập tức sai phó tướng là Từ Thương và Lã Kiền mang cờ hiệu Từ Hoảng, đến Yển-thành đánh nhau với Quan Bình. Còn mình thì dẫn năm trăm tinh binh đi men sông Miện-thủy, ra đánh mặt sau Yển-thành.

Quan Bình nghe tin Từ Hoảng, dẫn quân đến, liền đem quân bản bộ ra nghênh địch. Hai bên dàn trận. Quan Bình ra ngựa, cùng với Từ Thương giao phong. Mới được ba hợp, Thương thua chạy. Lã Kiền lại ra, được năm sáu hợp cũng chạy nốt. Bình thừa thế đuổi theo hơn hai chục dặm. Chợt tin báo trong thành bốc cháy. Bình biết là mắc mưu giặc, vội vàng rút quân về cứu Yển-thành, thì gặp một toán quân ra chặn. Hoảng đứng dưới cửa cờ, gọi to lên rằng:

- Hiền điệt Quan Bình! Kinh-châu nhà mày đã bị Đông Ngô cướp mất rồi, chết đến nơi, còn không biết, mà cứ ở đây ngông nghênh mãi!

Bình nổi giận, tế ngựa múa đao xông vào đánh Từ Hoảng. Được vài ba hợp, thì quân sĩ reo ầm cả lên, trong thành lửa bốc lên ngùn ngụt. Quan Bình không dám mải đánh, phải tháo đường chạy tắt đến trại Tứ-chủng.

Liêu Hóa ra tiếp vào, nói:

- Người ta đồn rằng Lã Mông đã lấy mất Kinh-châu rồi, bụng quân rối loạn cả, làm thế nào bây giờ?

Bình nói:

- Đây hẳn là họ ngoa truyền như thế, hễ quân sĩ thằng nào nói đến thì chém phăng đi là xong.

Chợt có ngựa lưu tinh chạy về báo rằng:

- Từ Hoảng dẫn quân đến đánh đồn thứ nhất ở phía bắc.

Bình nói:

- Nếu đồn thứ nhất mà mất, thì các trại kia cũng nhốn nháo cả. Trại này gần sông Miện-thủy, quân giặc tất không dám đến. Ta với ngươi nên cùng đến cứu trại thứ nhất mới được.

Liêu Hóa gọi bộ tướng lại dặn rằng:

- Các ngươi phải giữ trại này cho vững, hễ có giặc đến, thì phải đốt lửa lên làm hiệu.

Bộ tướng nói:

- Trại này rào mười lần chông chà, con chim bay cũng không lọt, lo gì quân giặc!

Quan Bình, Liêu Hóa mới khởi hết cả tinh binh ở trại Tứ-chủng, để đến cứu đồn thứ nhất.

Quan Bình trông thấy quân Ngụy đóng ở trên một ngọn núi thấp, bảo với Liêu Hóa rằng:

- Từ Hoảng đóng quân ở đây, địa thế không được lợi, đêm nay ta sẽ dẫn quân đến cướp trại.

Hóa nói:

- Tướng quân nên chia một nửa quân đem đi, để tôi ở nhà giữ trại mới được.

Đêm hôm ấy, Quan Bình dẫn một toán quân kéo thẳng vào trại Ngụy, nhưng không thấy bóng một người nào. Bình biết là mắc mẹo, vội vàng rút lui thì đã thấy mé tả có Từ Hoảng, mé hữu có Lã Kiền, hai mặt đánh dồn lại. Bình thua to chạy về, quân Ngụy thừa cơ đuổi theo, vây kín cả bốn phía. Quan Bình, Liêu Hóa chống giữ không nổi, phải bỏ mất đồn thứ nhất, chạy sang trại Tứ-chủng, thì đã thấy có ngọn lửa cháy; kíp lại gần xem té ra trong trại cắm toàn cờ hiệu nước Ngụy cả rồi. Hai tướng giật mình, vội vàng chạy theo đường Phàn-thành, lại gặp Từ Hoảng chặn đường. Hai tướng cố chết lăn xả vào đánh, mới tháo được đường chạy về trại lớn, ra mắt Quan-công, kêu rằng:

- Nay Từ Hoảng đã cướp mất cả các trại ở Yển-thành, lại nhiều người đồn rằng Lã Mông đã cướp mất Kinh-châu.

Quan-công quát mắng rằng:

- Đó là giặc đồn nhảm ra thế, để làm rối bụng quân ta; chớ Lã Mông thì ốm nặng, thằng nhãi con Lục Tốn thay chức, làm trò gì được mà sợ?

Nói chưa dứt lời, thì Từ Hoảng đã kéo quân đến. Quan-công sai gióng ngựa để ra đánh. Quan Bình can rằng:

- Phụ thân chưa được khỏe lắm, chớ nên ra trận vội.

Quan-công nói:

- Từ Hoảng có ân tình cũ với ta, ta đã biết tài sức của y, nếu y không rút lui, thì ta chém y trước, để răn các tướng Ngụy.

Nói rồi, mặc áo giáp, cầm đao lên ngựa, ra trước trận. Quân Ngụy trông thấy hết vía. Quan-công dừng ngựa lại hỏi rằng:

- Từ Công-minh ở đâu?

Từ Hoảng ở trong trận tế ngựa ra ngoài, nhổm mình lên mà nói rằng:

- Từ khi tôi biệt nhau với quân hầu, thấm thoắt đã được mấy năm rồi; không ngờ quân hầu nay đã đầu bạc râu trắng cả! Nhớ đến khi xưa chơi với nhau, được nhờ dạy bảo cho nhiều, không biết bao giờ quên cái ơn ấy? Nay quân hầu oai danh lừng lẫy cả trong nước, cố nhân nghe thấy vậy, lấy làm hâm mộ lắm. May lại được trông thấy nhau ở đây, thực là thỏa lòng khao khát bấy nay!

Quan-công nói:

- Ta với Công-minh, tình bạn thân thiết lắm, không như người khác, cớ sao đuổi dài mãi con ta làm vậy?

Hoảng ngảnh lại quát bảo bộ tướng:

- Hễ ai lấy được đầu Vân-trường, thì thưởng cho nghìn vàng!

Quan-công giật mình, hỏi:

- Công-minh sao giở mặt ngay được thế?

Hoảng nói:

- Hôm nay là việc nhà nước, tôi không dám vị chút tình riêng mà bỏ việc công!

Nói dứt lời, múa búa vào đánh. Quan-công giận lắm, cũng khoa đao lại dịch. Hai người đánh nhau hơn tám chục hợp; Quan-công tuy rằng khỏe, nhưng cánh tay bị thương, vẫn còn kém sức. Quan Bình sợ có nhỡ nhàng, vội vàng khua chiêng thu quân, Quan-công quay ngựa về trại. Bỗng nghe thấy bốn mặt tiếng reo như sấm, té ra Tào Nhân ở Phàn-thành, thấy có quân cứu đến, nên dẫn quân ra hợp với Từ Hoảng, hai mặt đánh dồn lại, quân Kinh-châu rối loạn.

Quan-công tế ngựa dẫn các tướng chạy lên mé trên sông Tương-giang. Quân Ngụy đuổi theo, Quan-công sang sông, chạy về Tương-dương.

Chợt có ngựa lưu tinh chạy đến bảo rằng:

- Kinh-châu đã bị Lã Mông cướp mất rồi, gia quyến bị hãm cả trong thành.

Quan-công giật mình, không dám chạy về Tương-dương nữa, phải kéo quân về Công-an.

Lại có thám mã báo rằng:

- Phó Sĩ-nhân ở Công-an đầu hàng Đông Ngô rồi!

Quan-công nghe báo giận lắm.

Lại có quân đi thúc lương về báo rằng:

- Phó Sĩ-nhân giết mất sứ giả ở Nam-quận, xui My Phương ra hàng Đông Ngô rồi!

Quan-công khí tức uất lên đầy ruột, vết thương lại vỡ ra, ngất đi ngã lăn xuống đất. Các tướng vội vàng cứu tỉnh dậy.

Quan-công ngảnh lại nói với Vương Phủ rằng:

- Tiếc thay! Ta không nghe lời túc hạ, hôm nay quả nhiên có việc thế này!

Lại hỏi rằng:

- Trên dưới ven sông, sao không thấy đốt lửa?

Thám mã bẩm lại rằng:

- Lã Mông sai thủy thủ mặc áo trắng, giả làm lái buôn, còn tinh binh thì phục ở dưới khoang thuyền, trước hết bắt cả quân sĩ giữ ụ, bởi thế không đốt được lửa.

Quan-công giẫm chân xuống đất than rằng:

- Ta mắc phải mẹo gian tặc rồi, còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa!

Triệu Lũy thưa rằng:

- Nay việc đã nguy cấp rồi, nên một mặt sai người về Thành-đô cầu cứu; một mặt đi đường bộ về lấy Kinh-châu.

Quan-công nghe theo, sai Mã Lương, Y Tịch đem thư ngày đêm về Thành-đô cầu cứu. Một mặt thì dẫn quân về Kinh-châu, tự mình đi trước, để Quan Bình, Liêu Hóa đi chặn hậu.

Đây nói Phàn-thành được giải vây, Tào Nhân dẫn các tướng lại ra mắt Tào Tháo, khóc lạy xuống đất xin chịu tội.

Tháo nói:

- Đó cũng là số trời, không phải lỗi tại các ngươi.

Tháo khao thưởng ba quân, đoạn đến trại Tứ-chủng, ngắm xem bốn mặt, rồi ngảnh lại bảo các tướng rằng:

- Trại này chung quanh có hào, lại rào chông chà mấy lần, thế mà Từ Công-minh dám lẻn vào nơi hiểm ấy, mà lại thắng trận. Ta dùng binh hơn ba chục năm, cũng chưa dám táo gan xông vào trong đất giặc như thế, Công-minh thực là người can đảm và có trí!

Chúng đều thán phục.

Tháo dẫn quân về đóng ở Ma-pha. Từ Hoảng dẫn quân đến, Tháo ra tận cửa trại đứng đón. Trông thấy quân Từ Hoảng hàng nào đội ấy, răm rắp một lượt, Tháo mừng nói rằng:

- Từ tướng quân quả thật có dáng như Chu Á-phu ngày xưa!

Liền phong Từ Hoảng làm Bình nam tướng quân, cùng với Hạ-hầu Thượng giữ ở Tương-dương, để phòng chống quân Kinh-châu.

Tháo thấy việc Kinh-châu chưa xong, đóng quân ở lại Ma-pha để đợi tin tức. Quan-công ở trên đường Kinh-châu, tiến lên cũng khó mà lui về cũng không xong bèn bảo Triệu Lũy rằng:

- Nay trước mặt có quân Ngô, sau lưng có quân Ngụy, ta bị chẹt vào giữa, quân cứu không thấy đến, làm thế nào bây giờ?

Lũy thưa:

- Khi xưa Lã Mông ở Lục-khẩu, có hẹn hai nhà kết hiếu với nhau, để đồng tâm mà cự Tào Tháo. Nay giúp Tào mà cướp lấy của ta, thế là trái lời hẹn trước. Quân hầu nên hãy đóng quân lại ở đây, cho người mang thư đến trách Lã Mông, xem y nói ra sao?

Quan-công nghe theo, viết thư sai sứ đến Kinh-châu.

Lã Mông từ khi lấy được Kinh-châu, truyền lệnh rằng:

- Nội ở trong các quân Kinh-châu, bao nhiêu gia quyến của những tướng sĩ theo Quan-công ra đánh trận, đều không cho quân Ngô được quấy nhiễu; hàng tháng được cấp lương gạo; ai đau ốm, có thầy thuốc đến chữa.

Bởi thế mọi nhà đều cảm cái ơn ấy, đâu đấy yên ổn cả.

Chợt có tin Quan-công sai sứ đến, Lã Mông ra ngoài quách đón vào thết đãi cực kỳ tử tế. Sứ giả trình thư lên, Mông xem xong, bảo với sứ giả rằng:

- Khi xưa tôi với Quan tướng quân kết hiếu, đó là ý riêng một mình tôi. Nay là phụng mệnh trên sai khiến, không được tự chủ, nhờ sứ giả về nói lại với tướng quân cho khéo.

Nói đoạn, mở tiệc yến khoản đãi, rồi đưa ra quán dịch nghỉ ngơi.

Các nhà có tướng sĩ theo đi trận, cùng lại thăm hỏi tin tức. Người thì gửi thư, người thì nhắn lời, đều nói chuyện cửa nhà yên ổn, no ăn đủ mặc cả.

Sứ giả từ biệt. Mông tiễn ra khỏi thành. Sứ giả về ra mắt Quan-công, thuật lại lời Lã Mông, và kể chuyện gia quyến Quan-công và gia thuộc các tướng sĩ ở trong thành, đều được yên ổn tiền gạo đầy đủ.

Quan-công cả giận nói rằng:

- Đó là mẹo của gian tặc đó thôi! Ta sống không giết được nó, thì chết cũng giết được nó, mới hả được bụng ta!

Nói rồi quát sứ giả lui ra.

Sứ giả ra trại, các tướng xúm lại hỏi thăm tin tức của nhà. Sứ giả thuật chuyện cửa nhà bình yên, Lã Mông trông nom tử tế; lại đưa thư của các nhà gửi cho các tướng. Bởi thế tướng sĩ mừng rỡ, không ai có bụng đánh nhau nữa.

Quan-công dẫn quân về Kinh-châu. Dọc đường, quân sĩ lắm người trốn về trước. Quan-công lại càng giận lắm, giục quân đi cho mau. Bỗng có tiếng reo rầm rĩ, một toán quân kéo ra chặn đường. Tướng đầu là Tưởng Khâm.

Khâm vác đao gọi to lên rằng:

- Vân-trường sao không hàng ngay đi cho chóng việc.

Quan-công mắng lại rằng:

- Ta là tướng nhà Hán, thèm hàng giặc à?

Liền tế ngựa múa đao xông vào đánh Tưởng Khâm, Khâm thua chạy, Quan-công đuổi đánh hơn hai chục dặm, lại nghe có tiếng reo, thì là Hàn Đương ở mé tả hang núi đổ ra; Chu Thái ở mé hữu kéo đến; Tưởng Khâm quay đánh ập lại. Quan-công vội rút lui. Đi chưa được vài dặm, thấy trên gò núi Nam-sơn, có một đám người tụ ở đấy, khói bốc nghi ngút. Trên núi có lá cờ trắng bay phấp phới, đề bốn chữ: "Kinh-châu thổ nhân". Họ gọi ơi ới: "Những người bản xứ, mau mau ra hàng đi".

Quan-công giận lắm, muốn lên núi giết bọn ấy. Bỗng ở trong hang núi lại có hai toán quân của Đinh Phụng, Từ Thịnh đổ ra. Ba mặt quân của Tưởng Khâm lại đuổi theo sau, tiếng reo dậy đất, chiêng trống rầm trời, vây khốn Quan-công mà đánh, tướng sĩ thủ hạ dần dần tẩu tán hết. Đánh nhau mãi đến mờ mờ tối, Quan-công trông ra bốn phía núi, thấy toàn là quân Kinh-châu, người thì gọi anh tìm em, kẻ thì réo con gọi cha, tiếng kêu như ri, rủ nhau đi mất cả. Quan-công quát ngăn lại cũng không được.

Quân sĩ của Quan-công chỉ còn hơn ba trăm người, đánh mãi đến canh ba; ở mặt đông lại có tiếng reo, té ra là hai toán quân của Quan Bình, Liêu Hóa đánh xốc vào giữa trận để cứu Quan-công.

Quan Bình nói rằng:

- Bụng quân biến mất cả rồi, phải được một thành trì nào tạm đóng quân, để chờ quân cứu đến. Gần đây, có Mạch-thành tuy rằng nhỏ, nhưng cũng đủ đóng quân.

Quan-công nghe lời, thúc quân đến Mạch-thành, chia quân ra giữ bốn cửa, rồi họp các tướng lại thương nghị.

Triệu Lũy nói:

- Chỗ này gần Thượng-dong, hiện có Mạnh Đạt, Lưu Phong giữ ở đó; nên sai người đến cầu cứu cho mau. Nếu được quân mã nơi ấy lại cứu, rồi đợi đại quân ở Xuyên đến, thì bụng quân tự khắc phải yên.

Đang bàn chuyện thì quân Ngô kéo đến, vây kín bốn mặt thành.

Quan-công hỏi:

- Ai dám đánh phá vòng vây, ra Thượng-dong cầu cứu không?

Liêu Hóa xin đi.

Quan Bình nói:

- Để ta đưa ngươi ra khỏi trùng vây!

Quan-công viết thư giao cho Liêu Hóa giắt vào trong mình, ăn no lên ngựa, mở cửa ra thành. Tướng Ngô là Đinh Phụng chặn đường. Quan Bình hết sức đánh xốc vào. Phụng phải chạy. Liêu Hóa thừa thế đánh ra khỏi được trùng vây, sang thẳng Thượng-dong. Quan Bình trở vào trong thành.

Lưu Phong, Mạnh Đạt, tự khi lấy được Thượng-dong, thái thú Thân Đam đem quân ra hàng, nên Huyền-đức phong cho Lưu Phong làm phó tướng quân, cùng với Mạnh Đạt giữ thành. Hôm ấy, nghe tin Quan-công thua trận, hai tướng đang thương nghị với nhau. Chợt thấy Liêu Hóa đến, Phong ra tiếp vào hỏi chuyện.

Hóa nói:

- Quan-công bị thua, hiện đang khốn ở Mạch-thành, tình hình nguy cấp lắm. Quân cứu trong Thục thì chưa hồ dễ mà sớm tối đến ngay được, cho nên sai tôi phá trùng vây chạy ra đây để cầu cứu. Xin hai tướng quân khởi ngay quân Thượng-dong để giải nguy ngay cho, nếu chậm chạp thì Quan-công hỏng mất.

Phong nói:

- Tướng quân hãy nghỉ ngơi, để tôi bàn xem đã.

Liêu Hóa ra nghỉ ngơi ngoài quán dịch, chờ đợi phát binh.

Phong bàn với Mạnh Đạt rằng:

- Chú ta bị khốn ngoài ấy, làm thế nào bây giờ?

Đạt nói:

- Đông Ngô binh nhiều, tướng khỏe, vả lại chín quận Kinh Tương đã lấy được cả rồi, chỉ còn Mạch-thành là một chỗ đất nhỏ bằng viên đạn. Lại nghe Tào Tháo dẫn bốn năm mươi vạn quân, đóng ở Ma-pha, thứ chúng ta có một ít quân ở xó thành núi này, địch sao nổi hùng binh hai nhà ấy, ta không nên khinh địch.

Phong nói:

- Ta cũng đã biết như thế rồi, nhưng Quan-công là chú ta, lẽ nào ngồi nhìn mà chẳng cứu?

Đạt cười nói rằng:

- Tướng quân nhận Quan-công là chú, chỉ sợ Quan-công không coi tướng quân như cháu mà thôi. Tôi nghe khi Hán-trung vương muốn nhận tướng quân làm con nuôi, thì Quan-công đã không bằng lòng. Về sau Hán-trung vương lên ngôi, muốn lập hậu tự, hỏi Khổng Minh. Khổng Minh nói việc ấy là việc trong nhà, nên hỏi Quan, Trương. Hán-trung vương mới sai người sang Kinh-châu hỏi Quan-công. Quan-công bảo tướng quân là con tò vò, không nên tiếp lập. Việc ấy ai cũng biết, tướng quân há lại không hay ư? Sao nay còn khăng khăng giữ nghĩa chú cháu, muốn đem thân xông pha vào nơi hiểm nghèo làm chi?

Phong nói:

- Ông nói cũng phải, nhưng từ chối làm sao bây giờ?

Đạt nói:

- Nay chỉ nên nói thác rằng: chỗ thành núi này mới lấy được, nhân tâm chưa yên ổn, không dám hấp tấp cất quân đi, sợ lại mất mất chỗ này.

Phong nghe lời ấy. Hôm sau, Phong mời Liêu Hóa đến, nói rằng dân ở đây mới thu phục, chưa dám chia quân ra cứu được.

Hóa giật mình nói rằng:

- Nếu thế Quan-công nguy mất!

Đạt nói:

- Dù tôi có đi cứu chăng nữa, thì cũng như một giọt nước, cứu làm sao được một xe củi cháy? Tướng quân nên trở về cho mau, thong thả chờ quân Thục đến cứu mới xong.

Hóa kêu khóc năn nỉ xin mãi; Lưu Phong, Mạnh Đạt cùng rũ tay áo đứng dậy trở vào nhà trong.

Liêu Hóa thấy vậy, biết việc không xuôi, nghĩ đi nghĩ lại, phải về Hán-trung vương mà cầu mới xong. Liền lên ngựa, chửi mắng rầm rĩ, rồi ra thành đi thẳng về Thành-đô.

Lại nói, Quan-công ở Mạch-thành, mong ngóng quân Thượng-dong đến cứu, mà mãi không thấy đến. Thủ hạ thì chỉ còn năm sáu trăm người, lại bị thương hơn một nửa; trong thành lương đã cạn, khổ sở vô cùng.

Chợt ở dưới thành có một người, tỏ ý xin đừng bắn tên ra, muốn vào ra mắt Quan-công nói chuyện.

Quan-công sai mở cửa cho vào, thì là Gia-cát Cẩn. Cẩn vào lạy xong, nói rằng:

- Tôi phụng mệnh Ngô hầu, đến đây dụ tướng quân. Từ xưa có câu rằng: "Biết thời thế gọi là tuấn kiệt". Nay chín quận Kinh Tương của tướng quân đã vào tay người khác cả rồi, chỉ còn một xó Mạch-thành này, trong thì hết lương, ngoài thì không có quân cứu, nguy đến ngay trước mắt. Tướng quân sao không về hàng với Ngô hầu, lại trấn thủ ở Kinh Tương, và giữ toàn được cả gia quyến, xin quân hầu nghĩ cho kỹ mà xem!

Quan-công sầm mặt lại, nói rằng:

- Ta là một kẻ võ phu ở Giải-lương, được nhờ chủ ta coi như anh em thủ túc, có lẽ đâu ta lại trái nghĩa mà theo hàng với người khác! Thành này mà phá, ta chỉ còn cái chết nữa thôi. Ngọc tuy đập vụn được, nhưng không sao đổi được sắc trắng; trúc đốt cháy được, nhưng không sao hủy được gióng thẳng; thân người tuy chết, nhưng còn danh tiếng truyền mãi trong sử sách đời sau. Ngươi đừng nói làm chi cho phí lời, xin mời ra thành cho mau, ta muốn đánh nhau với Tôn Quyền một trận nữa đây!

Cẩn nói:

- Ngô hầu muốn cùng với quân hầu kết làm dâu gia với nhau, hiệp sức lại để cự Tào Tháo, chớ không có bụng dạ nào đâu, quân hầu sao lại gàn thế?

Cẩn nói vừa dứt lời thì Quan Bình rút ngay gươm ra, chạy xăm xăm đến toan chém.

Quan-công ngăn lại nói rằng:

- Em hắn là Khổng Minh ở Thục, giúp bác con, nếu giết đi thì chẳng làm cho đau lòng anh em người ta lắm ru?

Liền sai tả hữu đuổi Gia-cát Cẩn ra thành. Cẩn thẹn đỏ mặt, lên ngựa đi về, nói với Tôn Quyền rằng:

- Quan-công bụng vững như sắt đá, không sao nói chuyển được!

Tôn Quyền than rằng:

- Người như thế mới thực là trung thần! Bây giờ làm thế nào cho được?

Lã Phạm thưa:

- Tôi xin bói một quẻ xem hay dở ra sao?

Quyền ưng lời. Phạm bói cỏ thi. Thành quẻ rồi, thì là quẻ địa thủy sư, lại có sao Huyền-võ lâm vào hào Ứng, chủ về việc giặc chạy ra ngoài.

Quyền hỏi Lã Mông rằng:

- Cứ như quẻ này, thì giặc tất phải chạy, ngươi nên dùng mẹo gì mà bắt cho được?

Mông cười nói rằng:

- Quẻ này chính hợp với ý tôi, Quan-công dẫu có tài bay lên trời, cũng không thoát được ra ngoài lưới của tôi phen này!

Thế là:

Rồng lạc co ngòi, tôm cũng bỡn,
Phượng vào lồng lưới, sẻ coi thường.

Chưa biết mẹo Lã Mông ra làm sao, xem hồi sau mới rõ.