Thơ Tản Đà/22

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Ếch mà. (Hài văn)

Khoảng thu đông, sương xuống, gió lạnh, nước ao cạn, ếch chui vào mà. * Rô, riếc, chê, chuối, cua. ốc, tôm, tép, đều có ý chê là vô tình. Ếch ngồi mà tự nghĩ riêng rằng: như mình, hai bàn tay không làm được việc gì, từ khi ra với đời, chỉ ăn cho no lòi tù-và, rồi phi nhẩy hão vô ích thời lại ngồi dương mắt ra đấy thôi. Thôi thời đành ngồi tho mà chịu tiếng vô tình, còn hơn nhẩy lắm mà vô ích. Nghĩ vậy, Ếch ngồi ngâm một bài, đề mà gửi đi rằng:

Phượng kêu trái núi bên tê,[1]
Hồng bay bốn bể, Nhạn về nơi nao[2].
Cánh Bằng đập ngọn phù-dao,[3]
Đầm xa tiếng Hạc lên cao vọng giời.[4]

Ao thu lạnh-lẽo sự đời,
Cành sương ngọn gió bời bời lá tre.
Lắng tai Ếch những ngồi nghe:
Tiếc xuân Quốc đã qua hè. ai thương.
Tràng Ve khóc đói năn sương;
Cô Oanh học nói như nhường công tai.
Nỏ mồm chú Khiếu hót ai?
Vì ai? bác Cú đêm dài cầm canh.
Canh khuya cậu Vạc mò ăn,
To mồm sơi cắp là anh Quạ đùng.
Diều-Hâu rít lưỡi giữa đồng;
Tặc-Kè nghiến lợi, Thạch-Sùng chép môi.
Gáy đâu Gà mái nhà ai;
Mèo gào, Chó hú, trên giời Lợn kêu.
Ếch nghe cũng đã đủ điều,
Ếch trông cũng đã đủ nhiều trò vui.
Thôi thời Ếch cũng xin lui,
Ẹp mình, rén bước, Ếch chui vào mà.
Ngồi mà nhắn bạn ao ta,
Bèo xưa nước cũ vưỡnh là có nhau.
Còn bèo còn nước còn lâu,
Còn xuân sắp tới, còn thu chưa tàn.
Còn nhiều ơn ái chan chan,
Còn khăng-khít nghĩa, còn ran-ríu tình.
Hang lan thanh vắng một mình,
Mấy nhời ỳ-ọp thảo trình tương-tri.
Lá bèo ngọn gió đưa đi.

  1. Câu này lấy ở chữ kinh Thi: Phụng-hoàng minh hỹ, vu bỉ chiêu-dương. 鳳 凰 鳴 矣,于 彼 朝 陽.
  2. Sách nho có chữ rằng: 鴻 飛 冥 冥 Hồng phi minh minh, là chim hồng bay từ lúc mờ mờ. Lại có chữ rằng: 雁 南 歸 nhạn nam qui, là chim nhạn về phương nam.
  3. Câu này lấy ở chữ Trang-tử: Bằng đoàn phù-dao. 鵬 摶 扶 搖. Phù-dao là ngọn gió.
  4. Câu này lấy ở chữ kinh Thi: Hạc minh vu cửu cao, thanh vấn vu thiên. 鶴 鳴 于 九 臯,聲 聞 于 天. — Bốn câu này chỉ là nói các vật quí đi hết những nơi xa.