Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ/Phần thứ hai/III

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

III

Việc di dân phải nhờ có Chính-phủ giúp. — Dân Bắc-kỳ muốn vào Nam, trước hết phải lo ba điều. — Xin Chính-phủ tha cho thẻ căn-cước, và trợ-cấp khoản tiền tầu. — Phiền anh em trong ấy giúp đỡ cho sự tìm việc làm.

Chính-phủ vì dân mà thiết lập lên, vậy cái vận-mệnh cùng sự hạnh-phúc của dân, nói tóm lại việc gì của dân, nhất thiết phải trông cậy vào Chính-phủ trông nom giúp đỡ.

Việc di dân cũng vậy.

Các nước văn-minh bên châu Âu. đã là phú-cường rồi, nhưng mà số người mỗi ngày một đông, mà mọi sự xuất-sản trong nước không đủ để tự cung-cấp, chính-phủ phải lo tìm chỗ để xử-trí dân, bèn đem tầu to súng lớn đi lấy thuộc-địa này, chiếm tô-giới kia, cùng là ký thương-ước với nước này nước khác, đều là một cách di dân, một cách thực-dân vậy. Mà trong nước, nhà nước có đặt riêng bộ thực-dân (殖 民 部), sổ chi thu có riêng ra một khoản để kinh-phí vào việc thực dân, nói tóm lại cái chính-sách «lo cho dân» của họ, không còn sót chỗ nào nữa.

Bên châu Á ta, trừ dân Tầu và dân Ấn-độ ra, tuy chính-phủ của họ chẳng hề có khuyến-khích việc thực dân bao giờ, mà họ cũng tràn lan ra hầu khắp thế-giới, đó là bị cái lo « nhân-mãn » đẩy đi, không sao cưỡng được, còn như nước Nhật cũng cổ-lệ về việc thực-dân lắm, không kém gì mấy nước ở châu-Âu. Nhật từ khi nhẩy lên đứng sắp hàng vào với hạng liệt-cường thế-giới đến bây giờ, dân-số mỗi năm tăng lên đến mấy mươi vạn, chính-phủ phải lo chỗ đó, cho nên chiếm Cao-Ly, giật Đài-Loan, tranh nửa giải đất Sakhaline với Nga, toàn là kiếm chỗ để di dân đi cả, nhưng mọi việc như thế đều có hàm nghĩa chính trị ở trong, ta cũng chẳng lấy gì làm lạ, duy có việc di dân sang châu Californie bên Mỹ, thì thuần là một mục-đích kinh-tế, ta thấy chính-phủ họ rất gia tâm khuyến-khích và bảo-hộ cho dân, cho đến ngày 1er Juillet mới rồi, 30 vạn dân họ kiều-cư ở đấy bị chính-phủ Mỹ ra luật khu-trục đi, thì chính-phủ lo tìm ngay chỗ khác, để đặt số dân đó, là di sang ở bên nước Brésil, mỗi tên dân đi như thế, chính-phủ trích tiền công ra cho 200 viên (Yen, là đồng bạc Nhật), mà mỗi chuyến đến mấy nghìn người, đã có tầu của nhà nước chở đi, tưởng chính-phủ lo đường sinh-hoạt cho dân, đến thế là chu-chí lắm vậy.

Về việc này, Chính-phủ Bảo-hộ cũng lo cho dân ta nhiều lắm, ta cũng phải biết ơn mới được. Cái chính-sách « ưu-dân » của Chính-phủ, rất hay mà vừa dễ dàng, chắc chắn, đỡ tốn kém, đỡ phiền-phức trông nom, là cái chính-sách « dân xứ nào cứ ở yên xứ ấy mà làm ăn », lo khô ráo thì đã lập ra máng nước, lo lụt lội thì đã có cách giữ đê (tiếc thay, nước là một chất mạnh lắm, cho nên đê vẫn vỡ luôn), lo đường vận-tải không có, thì lại khai thông sông ngòi, mở thêm đường xá, lo công-nghệ vật-sản không có chỗ tiêu-thụ thì đã có mấy nhà xuất-cảng đem ra ngoại-quốc bán cho, và Chính-phủ hằng lưu-tâm đi tìm mối hàng mới cho, tức như là sắp ký thương-ước với nước Nhật nay mai v....v... bao nhiêu cái công nghiệp đó, Chính-phủ toàn là vì dân mà làm, muốn cho ai nấy sinh-trưởng ở đâu, thì lập nghiệp ngay ở đấy, cần gì phải đi xa-xôi. Vả chăng hiện nay đường xá hãy còn trắc trở nghiêu khê, cho nên Chính-phủ đang gia công làm con đường xe lửa Vinh-Đônghà, chừng mấy năm nữa xong, lại làm nối con đường từ Tourane đi Nhatrang, cũng chừng mươi lăm năm nữa mới có là sớm, bấy giờ con đường Đông-Pháp thiết-đạo (le Transindochinois) làm xong, tha hồ cho người Nam kẻ Bắc đi lại với nhau, không phải phiền đến Chính-phủ phải bận lòng nữa.

Lâu nay, Chính phủ cũng đã thâm hiểu cái tình-thể cấp-bách của xứ Bắc-kỳ phải di dân đi là thế nào, nên chi có di một ít dân sang làm cu-li bên Nouvelle-Calédonie và Nonvelle Hébrides (đều là thuộc địa của Pháp ở Úc-châu) đủ chứng tỏ rằng Chính-phủ cũng lưu ý đến việc ấy lắm. Duy có việc di dân vào Nam-kỳ bao lâu nay,, vốn là ý dân ao ước, vốn là ý Chính phủ định làm, thế mà chưa thấy thực-hành gì cả, ý hẳn Chính-phủ nghĩ có điều gì chưa nên, mà ta không đủ sức biết tới. Đến ngày nay dân Trung, Bắc-kỳ càng thấy cấp-bách lắm rồi, cái thế không có thể nói « ai sinh ở đâu thì làm ăn ở đấy » được nữa, phải đi vào Nam-kỳ mà kiếm đường sinh nhai; là nói phải đi đi từng bọn, chớ không phải từng người, đã là từng bọn di-dân, thì không xin với Chính-phủ giúp đỡ cho không được. Chính-phủ vốn có lòng quảng-đại từ bi, cho nên ý của dân muốn thế nào là chánh-đáng. thì thiết tưởng bao giờ Chính-phủ cũng vui lòng chiều theo. có điều gì khó khăn, thì Chính-phủ cũng bớt đi cho được dễ dàng, vậy trong việc di dân mà ta đang cổ-lệ nhau bây giờ, mọi phương-diện tất cũng phải trông nhờ vào Chính-phủ vậy.

Lâu nay dân Trung, Bắc ngoài này, vẫn hâm-mộ cái sự đi vào Nam-kỳ, vì nghe tiếng Nam-kỳ là một xứ sung sướng phong-lưu, dễ làm dễ ăn lắm, cho nên bây giờ nói đến sự vào Nam-kỳ, thì hình ai cũng có sắc mặt mạnh bạo vui vẻ muốn đi ngay, nhưng trong sự « đi » ấy có nhiều chỗ khó khăn, sức họ không chịu đựng được, thứ nhất là cái lúc sắp sửa ra đi.

Lúc sắp sửa ra đi, tất phải lo trước ba việc này:

1• Giấy căn cước (Titre d'Identité.)

2• Khoản tiền tầu.

3• Ngươi giới thiệu.

Ba xứ Bắc-kỳ, Trung-kỳ, Nam-kỳ là nước Việt-Nam, hợp cả Cao-Miên, Lào, làm thành một xứ Đông-Pháp, đều ở dưới quyền cai-trị của Chính-phủ Bảo-hộ, song le mỗi xứ ở dưới một chế độ riêng, chính-thể khác, cho nên người xứ này muốn sang xứ kia, tất phải có một thứ giấy của quan địa phương mình cho, ấy là giấy thông hành. Trước kia, xin được một cái giấy thông-hành, là một sự phiền-phức lắm, phải đi hết sở nọ đến sở kia, chầu chực đến mấy ngày mới xin được, rất là bất tiện cho dân, cho nên mấy năm nay, Chính-phủ mới thi-hành giấy căn-cước. Giấy căn-cước và giấy thông-hành thì cũng giống giống nhau, duy chỉ có một vài điều khác, là giấy thông-hành thì chỉ hạn có ngày, mà giấy căn-cước thì được vĩnh viễn, giấy thông-hành thì cho không, mà giấy căn-cước thì phải mất tiền. Vậy người xứ này muốn sang xứ khác, là nói đi quanh trong xứ Đông-Pháp này thôi, thì tất phải có giấy ấy, tức là một bùa hộ-thân vậy. Như người ở thành-phố, thì do trưởng-phố dẫn đến sở Mật thám làm đơn xin. đơn đệ vào hãy để đấy: cho sở Mật-Thám dò xét vài ngày rồi mới cho; ở các tỉnh thì phải lý-trưởng làng mình dẫn lên Tòa Sứ nộp đơn, rồi sang Kho bạc nộp tiền, sang sở Cẩm hay Tòa án để đo người và lấy dấu tay, cũng chạy mất hai buổi hầu mới lấy được. Xin mỗi cái giấy ấy phải nộp Chính-phủ 5 hào, chưa kể chụp hai cái ảnh nghiêng mặt khổ 4 x 6, cũng mất chừng 4 hay 5 hào và tiền cơm rượu khoản đãi thầy lý trong mấy hôm nữa. Có cái giấy ấy thì tầu bể mới phát vé cho mà đi, nếu không có thì khi xuống tầu rồi cũng bị kéo lên bờ, thường khi bị tội nữa. Vậy trước khi đi, phải lo điều ấy là một.

Đường từ Bắc vào Nam xa xôi lắm. Đường bộ thì hiện nay mới có ba đoạn đường xe lửa đứt khúc là Hanoī — Vinh. (326 km) Quảng-trị—Tourane (174km.) và Nhatrang—Saigon, (408 km.) còn thì từ Vinh đến Đông-Hà, và từ Tourane đến Nhatrang là hai quãng đường bộ rất dài, đi xe ô-tô thì đắt tiền, đi bộ thì hết một tháng, mà đường xá gập ghềnh, núi rừng hiểm trở, đối với những hạng dân phải di đi, thì không tiện lợi tí nào, duy còn có đường thủy. Đường thủy thì trước ta thường đi ghe, mành, ngay bây giờ ở mấy tỉnh Thanh, Nghệ, Quảng-Bình, Bình-Định v... v... họ vẫn đi vào Nam-kỳ như thế, song lâu la và nguy hiểm lắm, chỉ còn có tầu thủy là tiện và mau chóng hơn cả. Nhưng vẫn còn là đắt tiền. Tầu bể chạy đường Haiphong (chính là cái cửa bể xuất phát của dân Bắc-kỳ) Saigon, trừ một chiếc tầu vừa nhỏ vừa chậm của ông Bạc-Thái-Bưởi, là tầu Verdun và tầu Bình-Chuẩn ra, thì độc quyền vận tải vào hãng Messagerics Maritimes, ta gọi là hàng « đầu ngựa », trong Nam-kỳ gọi là hàng Nhà Rồng, có ký giao kèo với Nhà nước, và một hãng nữa là Chargeurs Réunis (hãng năm sao) nhưng không có chuyến tầu chạy thường, ngoài ra, hoặc có tầu các nước ghé vào Haiphong rồi đi Saigon, dẫu có rẻ tiền hơn, ta cũng không được phép đi những chiếc tầu ấy. Giá tiền đây đi Saigon, trước là 36$00, nhưng mới đây lại hạ xuống có 20$00, là giá vé ở trên « Boong » (sur pont), không có ghế nằm ngồi gì cả, mỗi người đi tất phải đem chiếu hoặc ghế vải đi mà nằm, tầu phát cho mỗi người một cái « phiếu », đến bữa thì ra chỗ gian nấu bếp lĩnh mà ăn: được một bát cơm và bã súp, 4 ngày 4 đêm như thế thì vào đến Saigon. Vài chục bạc là bao, nhưng đối với những người đi « tha phương cầu thực », thì như thế cũng là nặng. Vậy trước khi phải lo khoản tiền tầu là hai.

Bấy lâu người Trung, Bắc-kỳ đi vào Nam-kỳ cũng nhiều, mà hay giắt díu nhau. Giắt díu nhau là một sự rất hay rất lợi, nghĩa là người đi vào trước, đã từng biết thung thổ và nguồn ngách làm ăn rồi, thì dẫn người sau — là bà con anh em — vào; người này không phải cái nông nỗi bơ vơ bỡ ngỡ, như chim chích vào rừng, lại không sợ là không có công-việc làm ăn nữa. Như thế, ta có thể gọi được là cách «hương-tộc di dân» (鄉 族 遺 民), ta đã thấy người làng Nội-duệ (Bắc-Ninh) kéo nhau vào bán hàng tơ lụa, người làng Lại-xa (Nam-định) vào làm mũ, làm giầy v..v..., người Quảng-bình vào làm cu-li xe và đi ở, làng nào cũng đến hàng trăm người vào ở quần-tụ với nhau, người có việc làm chẳng nói chi, không có cũng không lo thất-cước, là vì cũng có nghĩa đùm bọc chỉ dẫn cho nhau, mà người cùng làng đi vào đông được như thế, toàn là nhờ cách giắt díu nhau kẻ trước người sau cả. Trong lúc này ở trong Nam-kỳ, chưa có sở nào tìm việc cho người, chưa có sở nào mộ phu vào làm, thì số dân thừa ở ngoài này có muốn đi vào, cũng chẳng biết tự xử-trí mình vào đâu, cho đến những người muốn vào buôn bán làm nghề v...v.., nếu có người bà con quen biết ở trong ấy chỉ dẫn cho thì không nói gì, bằng không có thì sao? Vì không có người giới-thiệu như thế, cho nên một người muốn vào Nam-kỳ trước hết phải ngần ngừ về chỗ, vào đấy cách thức thế nào? làm ăn thế nào? ngộ lỡ vào mà không có chỗ nương tựa để kiếm việc mà làm thì sao? Không may bị bơ vơ thì khốn. Vậy trước khi đi còn phải lo có người giắt-díu cho nữa là ba.

Ba điều phải lo trước như thế, không thích hợp với cái tình-thế của dân nghèo muốn đi, cho nên bảo là ba sự ngăn trở cả. Ba sự ngăn trở ấy, nếu cứ để nguyên, thì không bao giờ nói được truyện di dân, mà muốn giải-thích đi, thì hai điều trên, ta phải xin với Chính-phủ. một điều dưới ta phải nhờ anh em đồng châu ta kiều-cư trong Nam-kỳ.

Xin Chính-phủ tha cho sự lấy thẻ căn-cước.

Chính-phủ đặt ra cái thẻ căn-cước, thật là dễ việc kiếm-đốc cho Nhà-nước, tiện sự thông hành cho dân-gian, thật là một miếng giấy mà tiện-lợi quá chừng, không còn nói vào chỗ nào được nữa. Duy xét kỹ ra đến sự xin được cái thẻ ấy, đối với những người đi học, đi buôn, đi làm, là hạng sẵn tiền trong túi thì thật là dễ dàng, đến như đối với dân nghèo — là muốn nói những người muốn vào Nam-kỳ kiếm ăn — thì sự xin được cái thẻ ấy thành ra khó. Khó, không phải là tại nghèo mà Chính-phủ không phát cho đâu, chỉ khó vì chỗ chạy được tiền để xin được thẻ ấy. Thẻ căn cước xin chỉ phải nộp có 5 hào, thì khoản tiền nhỏ mọn như thế, ai là chả có, song le khó ở chỗ vì phải vật nài thì thày Lý ở làng mới bằng lòng nhận thực cho, rồi lại mời thầy lên tỉnh, để vào tận Toà Sứ khai, cơm hàng rượu quán, tiền cáng tiền xe, chầu chực ít ra cũng hai buổi hầu mới được nếu là đường xa, thì phải tính cả ngày đi ngày về nữa. Đến khi được cái thẻ rồi, thử gẩy con tính xem trước sau tốn kém mất bao nhiêu: tiền quà bánh cơm rượu xe cáng cho thầy Lý mấy ngày ấy, ít ra cũng mất dăm đồng, bản-thân chưa kể, lại chưa kể đến mấy cái hình và tiền nộp lĩnh thẻ ấy, cũng vào một đồng bạc nữa, tổng-cộng lại, một cái thẻ căn-cước, tốn mất dăm bẩy đồng là ít, dân nghèo cần dùng mà xin cho được. chẳng bán mất mấy miếng vườn, cố mất vài sào ruộng hay sao? Mỹ-ý của Nhà-nước chỉ thu có 5 hào thôi, nhưng những khoản tốn kém đi theo với 5 hào ấy, dân không làm sao tránh được.

Nhân vì sự xin giấy căn cước, ngẫu-nhiên bị tốn kém khó khăn như thế, cho nên ta thường thấy nhiều người chui xuống hầm than ở dưới tầu nằm, và đi trốn ở dưới các ghe mành để vào Saigon, mà lính Mật-thám thường bắt được luôn, ấy là một cái chứng cớ vậy

Xét cái tình-thế ấy, thì xin Chính-phủ tha cho sự lấy thẻ căn-cước là hơn. Xin tha không phải nghĩa là xin thủ-tiêu cái đạo nghị-định về thẻ căn-cước đâu, vì thẻ này cũng có ích lợi nhiều lắm, mà chỉ xin rằng: đặc cách cho những dân nghèo, muốn vào Nam-kỳ, miễn là có thẻ thân-thuế rồi, thì cứ việc xuống tầu đi, không cần phải có thẻ căn-cước, để cho họ dễ dàng được sự ra đi, khi họ vào đến hải-cảng Saigon rồi, thì sở « Hải-cảng cảnh-sát » (Police de la Rade,) hay là sở Mật-Thám trong ấy sẽ khám xét từng người, chiếu thẻ thuế thân mà bắt nộp 5 hào, phát cho một thứ thẻ gọi là «thẻ cư-lưu » (Carte de séjour) theo hình như thể lệ đối với khách ở Tầu sang thì phải có thẻ ấy; như thế tưởng cũng đỡ phiền cho Chính-phủ, mà dễ dàng tiện lợi cho dân lắm.

Những khi họ ở trong ấy, mà trong việc buôn bán có cần phải thẻ căn-cước, để giao-thiệp với nhà Bưu-chính cho tiện, thì bấy giờ do trưởng-phố ở phố họ ở, nhận thực cho mà xin cũng còn dễ hơn là xin trước khi ở ngoài này đi, vì cái thẻ căn cước, vốn không hạn rằng người tỉnh nào hay xứ nào, cứ phải xin ở tỉnh ấy xứ ấy mới được, thứ nhất làm dân thành phố lại càng dễ hơn.

Nói tóm lại, không dám đâu xin Chính-phủ bãi hẳn thẻ căn-cước đi, nhưng sự thi hành thẻ ấy nên đối với tùy người mà khoan dung hay bắt buộc mà thôi.

2° Xin Chính-phủ trợ cấp cho khoản tiền tầu.

Nếu như việc di dân là một việc mà Chính-phủ đã có thì-giờ làm, thì một khoản tiền tầu, người đi không lo gì đến ví dụ như Chính-phủ mộ phu ngoài này vào mở mang hoang-địa và làm mọi công việc trong Nam-kỳ, thì khoản ành-phí tất Chính-phủ cho hẳn, nhưng hiện nay chưa phải như thế, dân chỉ vì thế bách, vì tình nguyện mà tự đi, thì phải lo một khoản tiền tầu, tiếng thế cũng là một việc nặng.

Trên kia đã nói đường đi vào Nam-kỳ, bộ có, thủy có, nhưng duy có đường thủy là tiện. Đường thủy cũng vô số tầu chạy, hiềm vì tầu nhỏ thì rẻ tiền, nhưng chạy chậm, tầu to thì chạy nhanh nhưng đắt tiền, bề nào cũng khó lòng cho người đi cả. Giá như đây vào Nam-kỳ, mà giá tiền tầu được rẻ, thì hẳn người đi nhiều, điều ấy dám nói chắc như thế. Tác-giả ở Saigon đã nghiệm rằng: tầu ở bên Hương-cảng sang mỗi tháng đến mười chuyến là ít, mà chuyến nào cũng có vài ba trăm người Tầu sang, thế mà tầu ở Haiphong vào, mỗi tháng năm bẩy chuyến là nhiều, mà mỗi chuyến chỉ thấy độ vài chục người Bắc vào, (trong vài chục người ấy, không phải gọi là người di-cư cả), thế ra một đàng xa, một đàng gần, sao đàng gần thì vào ít, mà đàng xa lại đến nhiều được thế? Cái cớ, ở trong mọi cớ, là chỉ tại một đằng tiền tầu rẻ, và một đằng tiền tầu đắt mà thôi, từ Hương-cảng sang đến tận Saigon chỉ có 7$00 mà từ Haiphong vào Saigon lại những 20$00, cho nên người Bắc vào Nam không đông được bằng người Tầu sang Tây-Cống (西 貢, là tên người Tầu gọi Saigon) là vì đó. Bởi tiền tầu đắt, không vừa tầm sức với cái « túi » của phần nhiều người đi, cho nên có nhiều người phải mạo hiểm liều thân. là thông với mấy người làm ở dưới tầu, đãi người này độ mươi lăm đồng, cho được rúc vào hầm than, hay là nằm co trên ca-nốt để trốn đi. may ra trôi chẩy thì thôi, không may bị bắt thì lại phải điệu về và bị tội nữa, nào ai có muốn bị tội làm gì cho khổ thân, chỉ vì muốn đi mà ít tiền cho nên mới phải làm liều như vậy.

Ấy mới nói sự đi tầu bể đắt tiền mà thôi, chưa nói đến những nông nỗi đi hạng trên «boong», thì cơm phải ăn xin, nằm không có chỗ, nghĩ lắm lúc mà tủi thân nữa.

Bởi thế, cho nên sự di dân bị ngăn trở, vậy bây giờ muốn cho người ngoài này vào trong kia được đông, thì phải xin Chính-phủ trợ-cấp cho khoản tiền tầu. Việc này, những kỳ hội-đồng Chính-phủ (Conseil du Gouvernement) mấy năm trước, đã có nhiều ngài thỉnh-cầu, lấy lẽ rằng những người là di dân, cần phải đem vợ con gia quyến theo, thế thì Chính-phủ phải trợ cấp tiền tầu cho họ mới có thể đi được, song le việc di dân chưa phải là việc Chính-phủ định làm, cho nên việc xin trợ cấp tiền tầu, Chính-phủ cũng chẳng xét đến. Trợ cấp thế nào? Mỗi người đi thì Chính-phủ cho mấy chục bạc hay sao? Như thế không tiện, hoạ chăng thế này mới được.

a/ Tầu của hãng Messagerics Maritimes (tổng-cục ở bên Marseille) đều có ký giao-kèo với Chính-phủ để chuyên chở thư-từ hàng hóa đi lại ở Pháp và Đông-Pháp, thế thì những chiếc đi lại ở Marseille và Haiphong mà giá tiền tính theo phật-lăng (franc Pháp thì không nói, nghĩa là lúc đồng bạc Đông-Pháp xuống thì giá tầu cao, lúc đồng bạc cao thì giá hạ; còn chiếc tầu như chiếc Orénoque chỉ chuyên chạy ra vào Saigon-Haiphong mà thôi, thì tưởng Chính-phủ có thể điều-đình lấy giá hạ nữa đi được, lấy giá tầu chạy từ Hương-cảng sang Haīphong, hay từ Hương-cảng sang Saigon làm tỉ-lệ.

b/ Ngoài ra còn có một vài chiếc tầu của các công-ty hàng-hải khác, ví dụ như tầu Bình-chuẩn, Verdun v...v... của ông Bạch-thái-Bưởi, hiện nay chỉ chuyên chở hàng hóa, mà không cần chở hành-khách, cho nên kỳ-hạn thường không chừng, nay xin Chính-phủ trợ-cấp cho những tầu ấy mỗi năm ít nhiều, để khuyến-khích cho cái nghề hàng-hải của người bản-xứ, chắc những tầu ấy có thể giựa vào khoản đó mà mở mang ra, thì sự chở hành-khách sẽ được chuyên và giá rẻ đi nữa.

c/ Chính-phủ cũng có xưởng đóng tầu bể ở Saigon, thường đóng được những chiếc tầu to, như chiếc Albert Sarraut hạ thủy năm 1921, giá đừng cho đấu-giá thuê, chỉ giao vào cho một công-ty nào đó quản-đốc, nhưng vẫn là tầu của nhà-nước, để chạy đường Hai phong Saigon, lấy giá rẻ hơn các tầu khác, cho những hành-khách ít tiền đi, thì lợi cho dân bao nhiêu.

Như thế, thì tuy Chính-phủ không phát tiền cho dân, mà tức là trợ-cấp cho dân khoản tiền tầu vậy. Hoặc có phương-pháp nào khéo hơn nữa thì lại càng hay.

3•/ Phiền anh em Bắc-ky đã ở trong Nam làm môi[đính chính 1] giới cho.—

Trong lúc mà việc di dân ta bàn đây, chưa phải là một việc thuộc về vấn-đề xã-hội kinh-tế, thì những người muốn đi vào Nam-kỳ, không biết có ai mượn mà làm, hay là tìm được việc gì mà làm không, vì đáng lẽ ngoài này phải có một sở « Tuyển-mộ người đi vào » mà trong kia phải có sở « Phát việc cho người làm » mới được, nhưng bây giờ những điều ấy còn thiếu thốn cả, thì ta phải cần có người làm môi giới cho.

Ai làm môi-giới cho được bây giờ? Trừ anh em Bắc-kỳ ta đã ở Nam-kỳ và anh em Nam-kỳ ra, thì không ai chịu mang cái trách-nhiệm ấy cho nữa.

Song le, nghĩ lại thì không chắc anh em Bắc-kỳ ta kiều-cư ở trong ấy bây giờ, có lương-tâm hay là có nhiệt-thành làm việc này cho không? Vì nghĩ lại cái tình hình người Bắc ở trong Nam mấy năm trước mà xem, không ai khỏi có bụng bi-quan được. Cách đây ba năm, tác-giả ở Saigon, trong cái cảnh-tượng ấy lấy làm phàn nàn lắm: số người Bắc kiều-cư ở Saigon rất đông, nhưng già nửa là những người đi làm việc và làm bồi bếp, hoặc là không có tâm-chí gì, hay nghĩ mình là hạng chân nâng, ở đi không biết lúc nào là định, thì cũng không có thì giờ mưu được việc gì lợi cho kẻ khác, và chăng nói cho phải, thì những người này không chiếm được địa-vị gì có thế-lực, chẳng qua tay làm hàm nhai mà thôi; chiếm được địa-vị có thế-lực, thì duy có mấy nhà buôn bán công-nghệ, song tiếc thay những ông này lại ích-kỷ quá. Cuộc buôn bán của người Bắc trong Nam-kỳ cũng phát-đạt lắm, chớ phải không đâu! đi ở Lục-tỉnh, không thấy mấy tỉnh không có cửa hàng của người Bắc, đi về các chốn nhà quê thường gặp người Bắc đeo gói hàng đi bán, mà thứ nhất là ở Saigon, chưa kể đến các phố khác, ngay ở phố Catinat, là phố người mình khó len lỏi thế, thế mà cũng có đến mươi tiệm hàng Bắc, trông nguy nga đồ xộ, bề ngoài không thua gì mấy tiệm tây, tiệm khách, tiệm Bombay, mà chủ trương toàn là những ông trông có học-thức và giầu có cả, tổng cộng lại thành một đảng « cự-tử » ở trong thương-trường, ai trông thấy cách doanh-nghiệp của các ông cũng phải kính phải phục. Chết nỗi các ông thờ cái chủ-nghĩa « vị-ngã » quá, nên không có đoàn-thể với nhau, mà cũng chẳng có công-tâm gì cả. Đáng lẽ bấy nhiêu người Bắc buôn bán, nên có một phòng Thương-mại — hay là ít ra một hội liên-hiệp — để bảo-thủ quyền-lợi cho nhau mới phải. Nhưng mà không. Đáng lẽ phải có nhiều cơ-quan như là hội cứu-tế, tiền tuất-cấp cho những người đồng châu trong khi cơ lỡ mới phải. Nhưng mà không. Đáng lẽ các ông ấy phải đứng lên lập hội gì để chỉ đường dẫn lối và đưa người tìm việc cho anh em ở ngoài này mới vào mới phải. Nhưng cũng không. Bao nhiêu người Bắc trong Nam-kỳ, chẳng có cơ-quan gì với nhau, chỉ có một cái hội là hội «Bắc-kỳ nghĩa-trang» nghĩa là người Bắc vào làm ăn trong Nam-kỳ, vào hội ấy, đến khi có chết ở đấy thì hội chôn cho, nghĩ hẹp hòi và buồn bã quá, cho nên khi ấy tác-giả đã viết mấy bài đăng ở báo «Nam-kỳ kinh-tế »[1] giải lẽ phải chăng, thì bị mấy ông đương-sự lúc bấy giờ, viết thơ đe kiện tác-giả, việc ấy đến nay, tác giả nghĩ vẫn lấy làm lạ.

Những tình-cảnh ấy ở mấy năm trước, chắc đến nay cũng vào thời-đại quá độ rồi, vậy tưởng có lẽ cũng trong mong anh em Bắc-kỳ ta hiện ở trong Nam bây giờ, để giải-quyết cái vấn đề « làm môi giới » này cho được.

Trước hết tưởng nên lập ra một nhà hội, gọi là nhà « Bắc-phương công-quán » 北 方 公 館 (Foyer des Nordistes),[2] theo đại-khái như hội-quán của Khách-trú, nội dung không những là một nơi tụ họp cho những người Bắc buôn bán làm ăn ở đấy, để bàn bạc nhau về việc buôn bán, công-nghệ, học thuật v... v.. mà lại đứng làm môi-giới giúp đỡ được cho những người Bắc muốn đi vào nữa. Trong Công-quán ấy, sẽ có đủ cả nhà trọ, hàng cơm, do một ban ủy-viên đứng trông coi, tuy không tặng không cho ai, nhưng mà lấy tiền rẻ bằng nửa ở các cao-lâu, khách-sạn, để cho những người mới vào bỡ ngỡ, có nơi ăn chỗ ở, đỡ phải tốn-kém như ở ngoài, mà đối với những người nghèo, khoản-đãi không tưởng có khi cũng được. Công quán lại nên đặt ra một ban cố-vấn, để đáp các thư từ của những người ở ngoài này muốn hỏi cách-thức vào, cùng là lần mò tìm công tìm việc để xử-trí những người đã vào mà chưa có chỗ làm ăn; việc này tất phải là người có thế-lực lớn, giao thiệp nhiều, lịch duyệt rộng mới làm được, nhưng mà những hạng người Bắc như thế này ở trong ấy cũng nhiều, thế thì chắc làm cũng dễ.

Sau hết, phải nên có một cơ quan gì đại-khái gọi là « Bảo hộ cho những người di dân » (Protection des Immigrants) để bảo hộ cho những người vào đấy, trong khi đau ốm, trong khi thất nghiệp, trong khi làm việc mà bị mấy người chủ thuê bạc đãi v... v... nói tóm lại, cái chế-độ không như bang của khách, mà cũng tức như bang của khách vậy.

Cái cơ quan ấy rất cần, có ích chung cho cả người đương ở và người sắp vào, nếu anh em Bắc kỳ ta kiều cư trong ấy, làm được như thế, hay hơn như thế nữa, do ở lực lượng và cao kiến của mình, thì tức là mở đường cho anh em ở ngoài này vào đông vậy. Vì hiện nay, những người ở Trung, Bắc-kỳ muốn vào Nam-kỳ, trừ ra đôi người có bà con giắt díu không kể, còn thì lo nhất là sự tìm việc làm, nay nếu có nhà công-quán như thế đứng lên chỉ dẫn và bảo lĩnh cho, thì thiết tưởng số người di dân ngày một đông không biết thế nào mà nói

Gần đây, trong Nam-kỳ đã có một sở tìm việc cho người làm, mở ra ở phố Harner, (Saigon) số nhà 70, gọi là « Office colonial de placement et de la statistique du travail », do một người đồng bào của ta trong Nam-kỳ là M. Bửu chủ-trương, cốt tìm việc cho những người không có việc làm, và đưa người cho các nhà riêng, các nhà buôn bán, thật là công-cuộc hay quá chừng, nhưng tiếc thay cái phạm-vi chỉ được ở Saigon mà thôi, nay ước gì M. Bửu khuếch trương cho to ra, có thể giúp đỡ vào việc di dân này được, thì càng thêm ích lợi cho đồng bào bao nhiêu!

Nói tóm lại, trước khi ra đi, phải lo giấy căn-cước, lo khoản tiền tầu, lo người giới-thiệu, mà nếu Chính-phủ giúp đỡ được cho hai điều trên, là tha giấy căn-cước, hạ giá tiền tầu, và anh em Bắc-kỳ đã kiều cư trong ấy hay là anh em Nam-kỳ đứng làm môi giới cho, thì vấn-đề di-dân này đã nhẹ đi được một phần vậy.


  1. Báo này bây giờ bị đóng cửa rồi.
  2. Gọi là bắc-phương, vì đối với Nam kỳ, thì Trung Bắc-kỳ đều ở mạn bắc vậy.
  1. Gốc: mối được sửa thành môi: chi tiết