Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ/Phần thứ nhất/II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

II

Dân số người Tầu trong Nam-kỳ. — Năm bang Hoa-kiều. — Đại khái cái nghề của mỗi bang. — Nghĩa đoàn-thể của họ. — Việc lập Lãnh-sự. — Cái vấn đề « lấy khách » ở trong nước ta.

Dân Tầu ở châu Á không khác gì dân Do-Thái ở châu Âu, hễ gầm giời này, chỗ nào có thể kiếm ăn được, là thấy có gót chân họ, một người Hoa-kiều ở Nam-dương quần-đảo nói rằng: « Người đời chỉ nói phàm chỗ có ánh sáng mặt giời chiếu đến, không chỗ nào không có ngọn cờ nước Anh, ta cho rằng phàm chỗ có nước bể chảy đến, không chỗ nào không có người Hoa-kiều »[1]. Thật ra thì cái gót chân người Tầu, chẳng những thấy ở những chỗ có nước bể chảy đến mà thôi, tức chí hoang-tắc[đính chính 1] như Tây Bá Lợi Á, xa-sôi như mấy nước Nga, nước Áo ở giữa châu Âu cũng tìm thấy họ, có người nói: Hoa-kiều rải rác ra các địa vực, rộng bằng người Anh, sức giầu có bằng người Do-Thái, chịu khó như người Ấn-Độ. nhanh lẹn như người Nhật-Bản, đến như cái số kiều-dân của họ ở đâu cũng đông, thì không kiều-dân nước nào bì kịp được.

Họ đến một chỗ nào, chẳng phải tranh thành cướp đất gì của người ta, nhưng mà khiến chỗ ấy cũng bị cái vạ như là tranh thành cướp đất, nghĩa là đến đâu, phần nhiều là nắm được cái thế-lực đồng tiền, chiếm được cái chủ quyền kinh-tế của người ta vậy.

Chính nước ta, mà thứ nhất là xứ Nam-kỳ, bị phải cái vạ này.

Có vào đến xứ Nam-kỳ, mới biết người Tầu ở trong nước mình là đông. mà cơ sở của họ là lớn. Bước lên thành phố Saigon, đi quanh những phố chợ Mới, chợ Cũ, là những phố rộng lớn và rộn rịp bằng mấy hàng Ngang hàng Buồm ở ngoài mình, đã thấy lúc nhúc những các chú, tính phỏng chừng cũng đến 3 hay 4 vạn người rồi, tuy vậy cũng còn là ít; đi gần 6 kilômét nữa vào đến Chợ-Lớn (người Tầu gọi là Đê-Ngạn, 堤 岸) là một thành phố toàn các chú cả, chưa kể đến nội dung ra thế nào, nhưng mới trông bề ngoài đủ khiến cho mình phải ghê sợ, xa xa đã trông thấy ống khói nhà máy nọ nhà máy kia, tua tủa lên ngang giời như hàng rào, nào tầu, bè, ghe, nốc, đậu tri trít ở mặt nước như mắc lưới, đã đủ giật mình về cái cảnh-tượng ấy rồi; lại vào đến phố, thì phố xá rộng rãi, nhà cửa nguy nga, hết đường nọ đến đường kia, qua phố này sang phố khác, không phố nào không nhà hai ba từng, không nhà nào không buôn bán lớn, thôi thì hiệu to tiệm lớn các chú, vác gạo kéo xe các chú, chủ hãng chủ nhà máy các chú, mà cho đến vót đũa đan rổ gánh nước bán quà cũng các chú, nói tóm lại, việc gì làm mà nay ra to từng hàng vạn, nhỏ đến đồng xu, thì cũng mấy chú mấy thím « thiên-triều » làm hết. Thành phố Chợ-Lớn, đất rộng hơn một nghìn mẫu, thì các chú ở quá ba phần tư, dân số 13 vạn người, thì phần các chú già một nửa (7 vạn người ở trên bộ, và hơn 1 vạn người ở dưới nước); kể cái hình-thế thành phố thì không rộng rãi đẹp đẽ như Saigon, như Hanoi, như Haiphong, nhưng kể đến các nơi công-nghệ buôn bán nước ta, thì Chợ-Lớn có vẻ hoạt-động vào bực nhất vậy.

Còn như số người các chú, rải rác ra làm ăn buôn bán ở Lục-tỉnh cũng đông hết sức: từ chỗ thị-thành dưới thuyền trên bến, cho đến thôn quê đầu xóm cuối làng, không có chỗ nào ta không thấy các chú, hoặc cửa hàng cửa hiệu, hoặc bán thịt bán rau, hoặc nghề kia nghệ nọ, các chú làm không sót một thứ gì cả. Các chú ở đông đúc nhất là mấy tỉnh Sóc-trăng, Bắc-Liêu, và Cần-thơ, và mấy tỉnh trù-phú nhất trong Nam-kỳ, mỗi tỉnh có đến hàng vạn và trên hàng vạn các chú ở cả, còn các tỉnh khác thì tỉnh nào cũng có năm sáu nghìn, bẩy tám nghìn, ít nhất là ở mấy tỉnh Bà-Rịa, Biên-Hòa, Tây-Ninh, Thủ-đầu-một, là mấy tỉnh dân nghèo, ruộng ít, đất xấu, rừng nhiều, thế mà các chú cũng kéo nhau đến ở hàng nghìn với trên hàng nghìn được, như thế đủ biết trong Nam-kỳ không só nào không có khách-trú vậy.

Trong khoảng mươi hai năm nay, họ sang mới lại cũng nhiều. Cứ kể từ năm 1912 cho đến năm 1922, trong 11 năm giời, số. người Tầu trên 17 tuổi mỗi năm vào Nam-kỳ như sau nay:


1912
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
13.201.
1913
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
13.624.
1914
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
10.143.
1915
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
10.118.
1916
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
9.998.
1917
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
14.473.
1918
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
15.889.
1919
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
16.058.
1920
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
17.078
1921
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
17.962
1922
.  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .
19.505.

Thế thì ra cứ kể trung-bình mỗi năm là 14.368 người Tầu sang ta, ấy là chưa nói đến đàn bà con trẻ. Hễ mỗi chuyến tầu ở Hương-cảng và Thượng-hải sang, là có đến hàng trăm chú thím vào cửa Saïgon, mà tháng nào cũng có vài chục chuyến tầu như thế, Nhà-nước phải đặt ở Saïgon một sở gọi là sở « Tân-đáo, 新 到» (Service de l'Immigration), chỉ chuyên trông nom về người Hoa-Kiều mà thôi Đến như cái tổng-số dân Hoa-kiều ở Nam-kỳ bao nhiêu, thì thấy mỗi chỗ nói một khác, nhưng xem cái tình hình trên kia, thì đại ước cũng đến 20 vạn người mới phải.

Trong số 20 vạn đó, thì người Quảng-đông là đông nhất cả, thứ đến người Phúc-kiến, thứ đến người Triều-châu v.. v... mà cũng ở dưới cái chế-độ « Tùy tiếng chia bang, mỗi tỉnh lập bang » là cái chế-độ của ta ngày xưa lập ra, và tác-giả đã nói ở đoạn trước.

Hoa-kiều chia ra làm 5 bang như sau này:

1° Bang Quảng-Đông. (廣 東)

2° Bang Phúc-Kiến (福 建)

3° Bang Triều-châu (潮 州)

4° Bang Hà-cá (HaKas,) (客 家)

5° Bang Hải-Nam (Haïnam,) (海 南)

Bang Quảng-đông là những người Tầu ở tỉnh Quảng-Đông, và người ở phía Bắc phía Tây tỉnh ấy. Một mình bang này đã đến hơn 8 vạn người, chưa kể đến đàn bà và con trẻ.

Người Quảng-Đông giỏi nghề buôn bán và công nghệ lắm. Ở Chợ-Lớn họ có hai nhà máy gạo to. Nội các hiệu to bán tơ lụa, các nhà máy cưa, các xưởng củi, các nhà làm gạch, làm đồ sứ. các lò vôi, các xưởng đóng thuyền trong thành-phố này đều là tay người Quảng-Đông chiếm độc quyền cả. Họ lại có nhiều nhà buôn chuyên nghề đem vật-sản trong Nam-kỳ như là da, sừng trâu, bông gòn vân vân... xuất cảng ra bán ở ngoại-quốc. Họ lại có cả nhiều xưởng đóng tầu nho nhỏ ở Chợ-Lớn nữa, mà phần nhiều những tầu con chạy quanh Cửu-Long-Giang ở Nam-kỳ, là của người Quảng-Đông cả. Đến như làm nghề thầu khoán, bán các đồ gỗ, làm thợ nề, thợ mộc, thợ may, thợ đóng giầy tây, các hàng thịt, các hàng cơm tây, cũng là người Quảng-Đông làm hết.

Bang Phúc-Kiến là những người Tầu ở phía tây nam Áo-Môn Dân số của họ ở Nam-kỳ cũng đến 5, 6 vạn người. Người bang này cũng giỏi nghề buôn bán lắm, ở hai thành-phố Saigon và Cholon, họ có rất nhiều hiệu to, và hầu hết các nhà máy gạo ở Cholon, và nghề buôn bán gạo trong Nam-kỳ là vào tay họ làm cả. Còn thì phần nhiều buôn bán tạp hóa, bán rượu, bán đồ sắt, và làm mại-biện (compradore, 買 辨,) ta vẫn gọi là chú mại bản cho các hiệu buôn tây và các cửa hàng khách, cho nên trong bang này, ta ít thấy có người đi làm thợ, hay hoặc đi ở, mà có dễ toàn-thể là làm nghề buôn bán.

Bang Triều-châu số người cũng đến 5, 6 vạn, là người Tầu ở gần cửa bể Sán-đầu (汕 頭, Swatow). Sán-đầu cũng thuộc về tỉnh Quảng-đông, nhưng mà người Triều-châu lập thành ra bang riêng, là vì tiếng nói Triều-châu và Quảng-đông khác nhau.

Người Triều-châu cũng buôn bán, nhưng so với hai bang trên thì còn kém xa, mà số đông có ý chịu khó làm những tiện-nghệ như là làm bạn thuyền, và làm cu-li khuân vác hàng hóa lên tầu xuống tầu ở cửa bể Saigon, cho nên ở Saigon họ đã có hai ba nhà chuyên bao những hạng cu-li khuân vác lúc nào cũng sẵn, mấy trăm người. Khách Triều-châu nấu nướng đồ ăn rất khéo cho nên cái nghề làm tiệm « cao-lâu » của họ cũng phát đạt lắm.

Trong Nam-kỳ, người Triều-châu ở các tỉnh Cần-Thơ. Sóc-Trăng, Trà-Vinh, Rạch-giá, Bắc-Liêu đông, và cũng có cày cấy ít nhiều. Hai tỉnh Bắc-Liêu và Rạch-giá có tới 13.865 người Minh-hương, toàn là con cháu người Triều-châu vậy.

Đến bang Hà-Cá, thì chỉ có độ 1 vạn rưỡi hay 2 vạn người là cùng, toàn là dân Tầu ở phía đông bắc tỉnh Quảng-đông. Họ cũng có nhiều nhà buôn ở Sài-gon và Cholon, song cũng tầm-thường không đáng kể gì. Trong bang này, ta cũng thấy có một đôi người làm nghề thầu khoán, và có một vài chiếc tầu thủy chạy nữa. Người Hà-cá chuyên làm những nghề thợ rèn, thợ đá, làm máy, đóng giầy khách và làm bánh, những tiệm bán chè Tầu, và những hàng bán rau cỏ, thì cũng phần đông là người Hà-cá hết cả.

Sau hết đến bang Hải-Nam, là những người Tầu ở cù-lao Hải-Nam gần vũng bể Bắc-kỳ ta. Bang này ít người nhất, chỉ có chừng ngót một vạn người, mà buôn bán ở Sài-gon và Cho-lon rất ít; phần đông người họ làm nghề đánh cá, và làm thuê trong những trại giồng hồ-tiêu ở mạn Hà-Tiên và Phú-quốc cả. Còn những người ở châu-thành Sài-gon và Cholon thì thường làm bồi cho các nhà tây, hay là nấu bếp cho các nhà hàng cơm, để kiếm ăn soàng soàng mà thôi.

Đại-khái nghề nghiệp của năm bang Hoa-kiều ở trong Nam-kỳ như thế.

Ta vẫn chịu Hoa-kiều ăn ở với nhau, rất là thân-ái liên-lạc, cái nghĩa đoàn-thể của họ rõ rệt lắm, sự đó tuy cũng có bởi sẵn tính tự-nhiên, và trong chỗ trường-hợp, có lợi hại quan-hệ đến nhau, cho nên không thế không được, nhưng cũng do cái chế-độ lập ra bang, khiến cho họ dễ cố-kết với nhau, mà Chính-phủ cũng dễ sai khiến vậy.

Bang, vì tổ-chức lên có nhiều cơ-quan ở trong, cho nên có lợi cho Hoa-kiều được nhiều mặt lắm: vừa là gia-đình, vừa là hương-tộc, vừa là hội liên-hiệp, vừa là phòng thương-mại, vừa là tòa-án, vừa là ông chủ ngân-hàng, vừa là quan lãnh-sự, vừa là hội cứu-tế của họ nữa Bang, danh-hiệu tuy có một, nhưng mà cái thể-chất ở trong thì chia ra vô cùng tận. Mỗi bang họp riêng để bàn việc lợi-hại của mình mỗi bang có một quỹ riêng có nhiều tiền: mỗi bang có một người lãnh-tự, tức là bang-trưởng Những người ra làm bang-trưởng bao giờ cũng là người có tuổi, giầu có, và đã từng lịch duyệt lắm. Họ bầu bang-trưởng, tuy cũng có bỏ vé, nhưng chẳng qua là chiếu lệ đấy thôi, chớ kỳ thực họ đã cử một người nào ra với Chính-phủ, là dùng cách đồng-thanh tuyên-cử; một điều đó đủ chứng tỏ rằng họ dễ bảo nhau.

Kỷ-luật trong bang rất nghiêm, đừng có tội giết người hay là tội gì nặng lắm thì mới phải phiền đến các quan và tòa án can-thiệp vào, còn thì họ điều đình hoặc tài phán lấy với nhau cả. Thường khi người trong bang có phạm lỗi gì, thì những người có chức sự họp lại để xử-đoán, hoặc tha hoặc phạt, cứ chiếu theo cái ý kiến của phần đa số mà làm. Họ có đủ cả nhà thương, nhà đẻ, vòi rồng để chữa cháy, đặt tuần để gác đêm, nhất thiết sự gì cần-dùng cho họ, thì đều có đủ, như thế chưa chắc không phải do nghĩa đoàn thể mà ra.

Thứ nhất là cái nghĩa tương-tư tương-trợ của họ lại càng nặng lắm, cho nên mỗi khi có chú nào ở bên Tầu che dù đeo gói mới sang, là nhập ngay vào bang, lấy chỗ làm gia-đình, làm hương-tộc cho mình, để bang giúp vốn và chỉ đường làm ăn, lại trông nom cho mình trong mọi công việc. Nếu ốm thì bang nuôi-nấng thang thuốc, muốn về nước mà không tiền thì bang cấp cho; nếu chết mà không có gì, thì bang tống táng cho rồi sau lại đưa hài cốt về Tầu, bang lại giúp đỡ cho nhà cửa, và chu cấp cho con cái đi học nữa.

Vì bang đối với người trong bang chu-đáo như thế, cho nên người trong bang đối lại với bang, phải phục-tòng lắm. Hễ ai ra ý bướng bỉnh, không theo mệnh-lệnh của bang, thì bang có cách đàn-áp, hoặc phạt tiền hoặc đuổi ra. Tuy vậy không mấy khi ta thấy trong bang họ xẩy ra những sự như thế, vì người Tầu đi làm ăn nơi xa, không biết ở một mình, bởi thế, họ lấy bang là cần dùng cho họ, mệnh-lệnh gì của bang ra, là phải tuân theo răm rắp. Chỗ này ta đã thấy nhiều chứng cớ lắm. Xa thì như năm 1908, các bang Hoa Kiều. thứ nhất là bang Quảng-đông, nhất định để chế hàng Nhật, y như họ họ để-chế dầu hỏa của Hoa-Kỳ năm 1905, mà yết thị rằng: nếu ai còn mua đồ hàng Nhật nữa, thì phải phạt 50 đồng. Quả một độ không có người Tầu nào dùng đồ Nhật. Gần thì còn nhớ cách độ 5, 6 năm có phường xiếc Ý-đại-lợi (Italie) vào làm ở Saigon, vì kéo một người Tầu ở ghế trên xuống ngồi ghế dưới thế mà tất cả mấy bang lấy việc đó làm công-phẫn, bảo nhau không ai đi xem. Quả nhiên, phường xiếc ấy, từ Saigon, ra Haiphong, Hanoi, cũng không có một người Tầu nào xem Hai việc ấy đủ chứng tỏ cái nghĩa đoàn-thể của người Tầu là dầy là nặng lắm, không trách có nhiều người Pháp đã nghĩ mà phải lo rằng: hoặc người Tầu tự họ tham lam, hay bị ai sui khiến mà phản nước Pháp ở đất nước Nam này, thì tính làm sao? Nhưng nghiệm ra cái mục-đích của người Tầu sang làm ăn ở đây là chỉ cốt kiếm ăn hay là làm giầu, chớ không có một điều sa vọng gì khác, (cái vấn-đề này đoạn cuối sẽ nói kỹ hơn), vả chăng cũng không đủ sức làm Chính phủ phải lo, nên Chính phủ cũng phải chịu rằng: nếu không có cái chế-độ lập ra bang, thì sự cai-trị người Hoa-Kiều ở đây cũng là khó khăn lắm!

Người Tầu kiều-ngụ ở ta rất đông, quyền-lợi của họ cũng lớn, mà thường khi gặp sự gì ức-uất, không có người bảo-hộ cho, nên chi việc lập lãnh-sự ở đây, cũng là một điều của người Tầu vẫn yêu-cầu mãi.

Chính phép chung của vạn-quốc, hễ dân một nước đến làm ăn buôn bán ở một nước nào, thì chính phủ có phái người đại-biểu chính-phủ sang ở nước ấy, để bảo-hộ cho dân mình, người ấy tức là lãnh-sự. Không thí dụ đâu xa, ta thấy ngay ở trong nước mình, hai hải-cảng thành-phố Saïgon và Hải-phòng có bao lăm người Nhật, người Mỹ ở mà cũng có lãnh-sự Nhật, lãnh-sự Mỹ đến trú v..v... thế mà dân Hoa-kiều ở đây hàng mấy chục vạn người sao không có được một ông lãnh-sự! Về việc này, tác-giả thường hỏi ý-kiến một vài người Hoa-kiều thì họ nói rằng: « Chính-phủ nước tôi, vẫn nhắc và yêu-cầu việc ấy mãi mà người Pháp không nghe. Mỗi lần yêu-cầu xin đặt lãnh-sự, thì các quan Pháp lại đòi mấy nhà phú-thương chúng tôi đến mà bảo rằng: « Nếu quả chính-phủ Tầu thật muốn phái lãnh-sự đến đây, chính phủ Pháp chỉ có việc chiếu theo lệ như những chỗ khác có đặt lãnh-sự mà làm, thì người Tầu không được có của bất-động-sản như là nhà cửa đất cát nữa, nhất thiết những quyền-lợi ấy, mà xưa nay người Hoa-kiều có, thì bây giờ phải thủ-tiêu đi hết. ». Thế là người Pháp cố ý không muốn cho nước chúng tôi đặt lãnh-sự vậy ».

Quả có đặt lãnh-sự, thì Hoa-kiểu cũng có thiệt thòi về quyền-lợi bất-động-sản và nhiểu quyền-lợi khác nữa thật, nhưng quỹ của Nhà-nước cũng rỗng đi mất mấy chục triệu đồng bạc mỗi năm, thì lại là một sự thiệt thòi hơn nữa. Vả chăng nói cho cùng thì cũng là tại cái phương-diện ngoại-giao của người Tầu còn lép vế quá, thò ra giao-thiệp ở đâu, là thất-bại ở đó, chưa kể gì đến những việc năm Canh-tí, việc 21 điều, việc Giao-châu, là những việc to, thế nước Tầu yếu thì phải thất-bại đã đành, nhưng đến ngay những việc ngoại-giao nho nhỏ, cũng chẳng làm nổi. Ta xem ngay như người Tầu kiều-cư ở bên Xiêm, đông đúc gấp mấy bên ta, phồn-thịnh gấp mấy bên ta, mà chính-phủ Xiêm vẫn bắt buộc người Tầu hễ đã vào nước Xiêm, là phải theo phong tục và luật-pháp Xiêm, lấy vợ Xiêm đẻ con, thì phải nhập tịch dân Xiêm hết, thuế má thì đánh rõ nặng, người Tầu kiều-cư ở đấy vẫn yêu-cầu đặt Lãnh-sự mãi, mà chính-phủ Xiêm nhất định không nghe, mới rồi lại còn đặt lệ mới bắt con cái người Tầu phải học chữ Xiêm nữa, bọn kiều-dân đánh giây thép về xin chính-phủ Bắc-kinh can thiệp, và xin phái Lãnh-sự sang để bảo-hộ cho, nhưng chắc chính-phủ Bắc-kinh cũng chẳng biết xử-trí ra làm sao, vì cũng vô lực. Không nói chắc ai cũng biết rằng chính-phủ Xiêm mà không cho Hoa-Kiều bên ấy có lãnh-sự, nghĩa là để mình được tự do đánh thuế nặng nề, thì sổ chi-tiêu nhà nước được rộng, bắt buộc rằng người Tầu lấy vợ Xiêm đẻ con, tất phải nhập tịch Xiêm, thì số dân trong nước càng thêm đông, vì cái lợi quyền cho dân cho nước mình, nên chính-phủ Xiêm từ chối việc đặt lãnh-sự Tầu là thế. Đường-đường một nước Tầu, yêu-cầu nước Xiêm việc ấy còn không đắt, phương chi yêu-cầu việc ấy với chính-phủ Pháp ở đây mà được hay sao?

Kết thúc đoạn này, ta nên xét về cái vấn-đề « lấy khách » đôi tí, để cho biết cái chế-độ Minh-hương ngày nay, khác với cái chế-độ Minh-hương ngày xưa.

Cái chế-độ Minh-hương của ta ngày xưa thế nào, mà tác giả đã nói trong đoạn trước, thật là một cái chế-độ hay; ấy ta cho bao nhiêu người Tầu vào doanh nghiệp trong nước ta, thì chỉ được có cái lợi Minh-hương là cái lợi cho ta vậy. Ta xem trong Nam-kỳ, tỉnh Bắc-Liêu và một phần tỉnh Sóc-trăng, người ở đấy nguyên là giòng dõi người Triều-châu ngày xưa cả. Dân cư ở ven bờ bể vụng Xiêm-La, khoản-giữa tỉnh Rạch-giá, tỉnh Hà-tiên, thì cũng là con chắu bọn nông dân Hải-nam ngày trứơc. Lại những người mình ở mấy tỉnh Châu Đốc, Hà tiên, Long-xuyên, phần nhiều là nhận tổ tích ở những bọn người tầu theo Mạc-Cửu sang ta hồi thế-kỷ thứ 18. Xem thế thì phía tây nam xứ Nam-kỳ mà có cái vẻ sinh-tụ như bây giờ, chưa chắc không phải nhờ có cái chế-độ Minh-hương, nghĩa là bắt con người Tầu, đẻ ra bởi mẹ Annam, thì tất là dân Annam vậy.

Cái chế độ ấy ngày nay. dưới quyền bảo-hộ người Pháp, thì không thế nữa. Người Tầu lấy vợ Annam, đẻ con ra thì có quyền tự do muốn cho nó theo quốc-tịch mình hay là quốc-tịch mẹ cũng được, tuỳ[đính chính 2] ở sức đóng thuế được đàng nào thì theo đàng ấy, đến như lễ-nghĩa y-phục thì cũng được tùy ý, không phải bắt buộc gì. Bởi thế ta thấy người mình lấy khách, may ai bợ được chú tài hay chủ hiệu giầu có phong lưu, đẻ con « ả-beng » ra, thì là « các chú », sau này lớn, mấy chục bạc, các chú cũng nộp thuế cho nó được, lại còn có thể đem nó về bên Tầu nữa, còn những người nào lấy phải các chú nghèo nàn khổ sở, thì con đẻ ra mới chịu vào tịch Minh-hương, chịu khó làm « ố-nàm » vậy, nhưng được điều phải đóng thuế nhẹ thôi. Xem cái hiện-trạng ngày nay, thì phần như ở trên nhiều, mà phần như ở dưới ít, vì các chú lấy sự cho con vào tịch Minh-hương, là nhục cho mình, là một sự bất đắc dĩ lắm, như thế thành ra các chú sang bên này, vơ vét tiền của của ta chẳng nói làm gì, lại còn lợi-dụng đàn bà ta để lấy con, đến khi nặng túi bố giắt con về, để người mẹ bơ vơ ở bên này, đàn bà lấy khách ở nước mình, gặp nhiều cảnh đáng thương, ta đã từng thấy lắm, vậy thì chẳng phải các chú khôn mà ta dại, các chú lợi mà ta thiệt lắm ư?

Trong Nam-kỳ đông người Tầu như thế, trừ ra mấy người giầu có mới đề huề vợ con ở Tầu sang, còn thì toàn hạng giai trẻ sang làm ăn rồi mới lấy vợ bên này, cho nên chị em trong Nam-kỳ ta lấy khách nhiều lắm, thế mà kể đến người Minh-hương rất ít, tổng số chỉ độ 5 vạn người, mà số 5 vạn ấy, phần nhiều là cha truyền con nối, là người Minh-hương từ những đời nào, chớ không phải là mới đây mà được như thế, bây giờ thì ả-beng phần rất đông theo quốc-tịch của bố cả, trong hơn 20 vạn Hoa-kiều, ta nên nhận biết rằng có đến 5, 6 vạn ả-beng như thế vậy. Nếu 5, 6 vạn ấy bắt phải là Annam, thì ấy là cái lợi lấy khách của ta, nhưng 5, 6 vạn ấy vẫn là người Tầu, thì lâu dần các chú cũng về Tầu hết, ta lấy khách chỉ là « đẻ con thuê » hay sao?

Bởi vậy, có người bàn rằng: « Nhà nước lại nên thi-hành cái chế-độ Minh-hương của nước Annam ngày trước, bắt rằng: những đứa con đẻ ra do bố khách mẹ Annam, thì không được nhận là quốc-tịch mình mà đem về Tầu, tất phải nuôi theo lễ-nghĩa y-phục Annam, phải chân-chính là người dân Annam mới được. Làm thế, tuy so với quốc-tế công-pháp bây giờ có trái, nghĩa là bao giờ đứa con cũng phải theo quốc-tịch cha, nhưng mà giá Nhà nước lấy lẽ rằng: bảo-hộ xứ này, thì cũng phải giữ lại những chế-độ cũ của xứ này ít nhiều, thì tưởng không ai cho là không phải, mà người Tầu cũng không nói vào đâu được. Ví bằng bảo mới đời thứ nhất mà đã vội biến-hóa người Tầu ra Annam ngay, là cấp-tốc quá, thì đời thứ hai, phải bắt là người Annam cũng được. »

  1. Thấy ở trong sách « Kiều vụ vựng-biên » (僑 務 彙 編) của người Tầu làm ra.
  1. Gốc: cắc được sửa thành tắc: chi tiết
  2. Gốc: tuy được sửa thành tuỳ: chi tiết