Tiếng quốc kêu/Tiếng quốc kêu

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

TIẾNG QUỐC KÊU


Trời mùa hạ gió may san sát.
Nắng chiều nam mặt rát mày chau.
Thương thay con quốc bên lầu.
Thâu canh kêu réo giọng sầu nỉ non!
Quốc, quốc, quốc, nào hồn đâu tá!
Ta, ta, ta, ai đã tỉnh chưa?
Trời nam mây ám mập mờ.
Trông vời cố-quốc coi mà xót thương?
Kìa đàn én trên đường quấn quít.
Những mải vui tíu tít nhao nhao.
Ngỡ rằng yên ổn chẳng sao.
Hay đâu ngọn lửa đã vào tới nơi?
Kìa đàn cá dong chơi trong hũ,
Những ham mê vui thú vẫy vùng,
Ngỡ rằng mặc sức đua dong,
Hay đâu dao thớt chù-phòng sắp pha?
Thấy trạng-huống, nghĩ mà ghê sợ.
Nỗi nước này, than thở với ai?
Hơn hai mươi triệu con người.
Nhẽ không gan óc mắt tai cả nào?
Giống thần-tộc nhất bào bách noãn.
Khí tinh-anh non Tản nước Hồng
Chung nhau giọt máu tiên rồng,
Sản sinh trong cõi Á-Đông bấy chầy
Bốn nghìn lẻ năm nay có nước.
Bức thiên-thư định trước rành rành
Thánh hiền hào kiệt đời sinh

Cầm quyền tự-chủ một mình cõi Nam.
Bỗng cơ-sự ai làm ra thế?
Để sơn-hà thổ-địa dĩ phi.
Há rằng cái giống ngu xi,
Mà cam chịu mãi cơ mi cho đành?
Hay vượng-khí anh linh đã hết,
Chẳng sinh ra hào-kiệt anh-hùng,
Giang-sơn phải lúc vận cùng,
Cháu tiên hóa cú, con rồng hóa run?
Hay phải lúc quốc-hồn xiêu bạt,
Chưa gặp thầy ấn quyết cao tay,
Vất vơ ngọn cỏ lá cây,
Mơ màng còn chửa đến ngày qui lai?

Trời đông rạng, sao mai đã mọc,
Trông canh tàn, gà thúc gáy mau,
Dậy mà trông trước trông sau,
Thử coi thế-giới nay hầu thế nao?
Nước Ấn-độ hô hào tự-trị
Phi-luật-tân rầm rĩ đòi quyền,
Ba-ti độc lập hoàn toàn,
Kể bao nước mới bên miền Mỹ Âu.
Cuộc Âu-chiến về sau trở lại,
Trước sau đều thoát khỏi cơ mi.
Nước này, nước nọ, nước kia,
Đua nhau thổ thiệt giương mi với đời.
Ấy những nước bị người cai trị,
Rặt những tay áp-chế cường-quyền
Hãm vào địa-ngục tối đen,

Cũng còn ngỏ cửa long then lọ là?

Nước Đại-Pháp vốn nhà bác-ái,
Lấy văn-minh đối đãi thuộc-dân.
Đem tâm khai hóa dần dần,
Mong ta chóng được tới tuần khai-thông,
Dắt díu để lên cùng đài múa,
Ngày ngày càng tấn bộ văn-minh,
Vực lên cho đứng một mình,
Kết giây liên-lạc giao tình Tây Nam!
Phải đâu có bụng tham sâm lược?
Phải đâu mưu chiếm nước thực dân?
Bấy lâu ấp bóng nương chân,
Nhẽ nào ta có mang ân làm thù?
Nhưng có nước phải lo lấy nước!
Ỷ lại người chi được dài lâu!
Lo là kẻ Á người Âu
Tính tình đã khác, vui sầu dễ chung.
Trên có bụng cố công huấn dụ,
Dưới khác lòng cũng khó cậy tin,
Thử xem hơn sáu mươi niên
Biết bao chính-sách dạy khuyên thi hành?
Mà chỉ thấy người mình thoái hóa,
Chưa thấy gì thật dạ noi theo,
Xem ra vật-chất thì nhiều,
Tinh-thần thì lại có điều mất đi.

Ai chẳng bảo từ khi bảo-hộ.
Dân xứ ta trình độ hơn nhiều,

Nông, thương, kỹ-nghệ mọi chiều.
Có cơ phát-đạt thịnh giầu hơn xưa.
Vì đâu có xe đưa tầu đón,
Vì đâu sinh nhà bốn năm từng,
Vì đâu mở núi khai rừng,
Vì đâu sung sướng cho bằng ngày nay?
Sướng ôi sướng! sướng đầy sướng đọa.
Ai biết cho cái họa tầy trời?
Phàm người mẫn thế ưu thời,
Thấy cơ luống những kêu dài thở than:

Ôi! nhà-nước đặt quan cai trị,
Há dong đâu những kẻ tham tàn?
Mà sao thấy lắm phường gian,
Lừa dân giối nước những toan béo mình?
Coi pháp-luật tựa hình trò trẻ.
Đủ thiên phương bách kế chở che!
Thay đen đổi trắng giở nghề.
Tiền vào là được, không thì chịu oan!
Công hối-lộ tự quan chí lại,
Những làm cho khốc hại vì tiền.
Thương thay một lũ dân đen,
Trời cao ngắn cổ kêu lên được nào?

Kìa như bọn kỳ-hào tổng-lý,
Quen thói ngu cậy thế cậy thần,
Gà què quấy bẩn trong dân,
Xoay quanh tìm chốn kiếm ăn tầm thường;
Nhà-nước đã cải lương hương ước,
Sửa thói hèn kiếm trác hương-thôn.

Mà phường lấy dối làm khôn.
Thông đồng làm mọt ăn cùn thêm ra.
Hoặc kiện cáo sẩy mà bại-lộ,
Lại đem tiền làm cỗ cúng quan,
Thương thay cái thói gian ngoan.
Có ai xét tới dân gian cho mà?

Đến như sự quốc gia giáo-dục.
Chính việc to tạo phúc dân ta.
Học-đường truyền bá tinh ba.
Mở mang trí thức nhẽ mà hẹp chi?
Chỉ thấy những kẻ đi trường học.
Những ham lòng chì chục làm quan,
Mà đường khoa-học chuyên-môn,
Chí tâm nghiên-cứu vẫn còn hiếm hoi,
Cố chen chúc được ngôi nô-dịch.
Kiếm no riêng là thích chí rồi,
Đúc nên tư-cách tôi đòi.
Nước suy mặc nước, dân đồi mặc dân.

Còn cái thảm trăm phần kia nữa.
Lũ thanh-niên lánh ở thôn xa,
Ngặt nghèo khôn thể kiếm ra,
Để con đành chịu lân la dông dài.
Dẫu có muốn ra ngoài học tập,
Của đâu mà châu cấp cho con?
Vùi đầu trong só hương thôn,
Chất thông cũng dốt, tính thông cũng hèn.
Đã vô học lại quen tập-nhiễm.
Đua những nơi chó điếm mèo đàn,

Nuôi thành cái thói ngu ngoan.
Trách nào phong tục tồi tàn sấu sa?
Người tính-cách sinh ra tham bỉ.
Thuần những phường vô sỉ vô liêm.
Khinh coi lễ nghĩa chẳng thèm.
Cương-thường trật-tự còn nghiêm-chỉnh gì?

Nơi thành-thị đua bề sa sỉ,
Tập nhiễm toàn tính quỉ lòng ma,
Bề ngoài như ngọc như ngà,
Bề trong chứa trất những là than tro.
Càng những hạng cửa to nhà lớn,
Càng chơ chơ mặt lợn lòng dê,
Tha hồ kẻ nhổ người chê,
Gái cho chim chuột, trai thì ngựa trâu,
Nước ôi nước, nước đâu nước thế,
Mấy ngàn năm lễ nghĩa còn gì?
Thương thay cái xác hành-thi.
Hồn kia đã chết còn chi là đời?
Thảm vong-quốc thảm thì thảm thật,
Thảm chưa tầy thói mất lòng hư!
Nghĩ như nông nỗi bây giờ,
Càng đau đớn ruột, càng sa xót lòng!

Ôi! Bảo-hộ bấy đông khai hóa,
Há tiếc gì truyền bá chính hay,
Biết bao công dựng của gây,
Mà ta chưa thấy được ngày yên vui,
Trong phong-tục suy đồi khôn cứu.
Ngoài cạnh-tranh bộ-sậu thua người.

Hỏi rằng lỗi ấy tại ai,
Há rằng lỗi tại người ngoài đó ru?
Ta có nước chẳng lo lấy nước,
Ta có dân mà nhác bỏ dân,
Đồng-bào chẳng biết tương-lân,
Chắc chi kẻ Việt người Tần thương nhau?
Nay sóng gió năm châu càng rộn,
Có nhẽ mình chịu khốn mãi nao?
Trói chân còn nhẩy được nào,
Nhốt lồng còn ngồi bay cao được mà?
Ta phải liệu gỡ ra cho khỏi,
Thoát khỏi vòng dàm trói cũi then,
Cùng nhau hết sức kêu lên,
Thỉnh-cầu Chính-phủ trao quyền cho ta.
Để ta được đứng ra tự-lý.
Sửa sang đường quốc-kế binh-mưu,
Đua ganh theo bước hoàn-cầu,
Họa mong có lúc mạnh giầu khôn ngoan.
Kẻo ấp vú vẫn hoàn ấp vú,
Chỉ ngày ngày theo bú mẹ nuôi.
E khi nòng-nọc đứt đuôi,
Ngẩn ngơ còn biết cậy ai bây giờ?

Càng trông thấy thời-cơ càng sợ,
Chắc có ngày đất lở trời long.
Dù ta chẳng biết đề phòng,
Cháy thành vạ cá quyết không khỏi nào.
Đảng cộng-sản ào ào khởi-xướng,
Bọn nông Nga thái trạng đang hung.

Lan ra hồ khắp mọi vùng.
Mỹ, Âu truyền tới Á-Đông thịnh hành,
Bọn lao-động hoan nghênh chủ-nghĩa.
Càng ngày xem khí thế càng to.
Nước mình kề ở liền khu,
Chắc đâu tránh khỏi cái lo tầy đình?
Nước Nhật-Bản cao-thanh xướng liệp,
Hội Á-châu liên-hiệp cùng nhau.
Cọp già định giở mưu sâu,
Chí toan hùng-bá Á-châu chẳng vừa.
Ý chừng muốn chực thừa cơ-hội.
Lấy binh-oai quấy rối đông-phương.
Vẫy vùng trong Thái-bình-dương,
Nước mình khỏi chịu tai-ương được mà?

Cái hiểm-tượng bầy ra trước mắt,
Thế sau này, nguy rất là nguy!
Nước mình đã chẳng quyền gì,
Mà tình bảo-hộ duy-trì khó thay!
Việc tài-chánh đang ngày khốn quẫn,
Hiện còn đang tính quẩn lo quanh.
Rồi đâu lo việc nước mình,
Tính đàng bảo-thủ hòa-bình dài lâu!
Dậy, dậy, dậy! mau mau dậy dậy?
Nước đến chân, phải nhẩy chớ chầy,
Ngồi im mà ngóng đợi thầy,
Chết chìm mong tưởng chi ngày vớt cho?
Ai là bậc cự-nho, chí-sĩ,
Ai là người tuấn-vĩ thông minh,
Ai người học thuật thâm tinh,

Ai người pháp luật tập tành hiểu thông,
Ai là kẻ canh nông truyên trị,
Ai là nhà kỹ nghệ truyên-môn,
Ai nhà giáo-dục sư-tôn,
Ai nhà kinh-tế bán buôn tinh tường?
Dù có bụng yêu thương nòi giống,
Dù có lòng cảm động giang-san?
Nghĩ câu nước phá nhà tan,
Phải nên góp sức họp đàn với nhau.
Cùng hợp trạng kêu cầu Chính-phủ,
Lấy trung thành cáo tố tình do.
Để ta được phép tự-đồ,
Có quyền tự-trị tự-mưu nước mình.
Lập hội-đảng kinh doanh chính-trị,
Dần dần đem chính-thể cải lương,
Nào là chấn chỉnh quan trường,
Nào là học-giới rộng đường giáo-qui.
Nào tìm cách biến di phong tục,
Nào kiếm phương đào thục nhân-tài.
Binh-mưu quốc-tế trong ngoài,
Mọi công mọi việc kén người chủ-chương.
Trong trù-hoạch về phương nội-trị,
Ngoài sửa sang về kế ngoại-giao,
Họa khi muôn một thế nào?
Thi gan cưỡi sóng đè chàn thử coi!
Bằng bó cánh đợi thời đợi vận,
Biết đời nào trao tận tay cho?
Thực-quyền giữ lấy bo bo,
Cố dìm cho đến chẳng nho được đầu:

Sự trước mắt xa đâu chẳng rõ,
Cánh thực-dân họ cố họ chèn
Quan Toàn-quyền mới Va-Ren.
Muốn cho Phát-Việt đôi bên đề huề,
Toan mở rộng phạm-vi chính-trị,
Tây cùng Nam quyền lợi công bình.
Cùng nhau cộng tác đồng hành,
Gian nan cùng gánh, yên lành cùng vui;
Mà họ đã lôi thôi phản-đối,
Trách Toàn-quyền tư túi người Nam:
« Vội đem tháo cũi mở dàm
Dong đoàn cách-mạnh muốn làm hại Tây »
Thậm chí lại tỏ bầy nghị-viện,
Vu-chức ra những chuyện nọ kia,
Toàn-quyền kíp phải điệu về,
Quyết cho chính-sách sinh bề ngửa ngang.
Ấy mới nói phô trương làm vậy,
Thực-sự đâu đã thấy thi-hành?
Vậy mà họ đã sinh tình,
Nhao nhao chèn chọc những rình phá đi.
Dù Chính-phủ thực vì ta nữa?
Họ đâm ngang kèn cựa lôi thôi,
Dùng dằng trống ngược kèn xuôi,
Kẽ đi người kẻo dật lùi ích chi?
Hoặc có kẻ xót vì nòi, giống,
Tỏ tình dân khổ-thống hô hào,
Rung chuông khua động đồng-bào.
Khuyên nhau tự-lập, bảo nhau tự-cường.
Càng thấy thế, họ càng nghi kỵ

Đổ nặng tình: Súc chí, tiềm mưu,
Tìm tòi tang chứng không đâu,
Muốn đem khép tội, kiếm câu gà trằng:
Một cách-mạnh, hai rằng phản-đối,
Buộc vào cho cái tội vô-tình,
Thương thay nông nỗi nước mình.
Cái dân vô-quốc còn danh giá gì?

Khốn nạn nhẽ! người thì trói buộc,
Đường cạnh tranh chẳng được tự-do.
Mong sao ra sức ganh đua,
Thi gan trống trọi được thua với đời!
Người chẳng được đua tài đua trí,
Mong chi đường kinh tế mở mang?
Lấy đâu súc tích tiềm tàng,
Mà mong tới cõi phú cường như ai?
Của đã kém, tất người thêm xuẩn,
Nước tất càng khốn quẫn mãi đi,
Mai sau họa sẩy sự gì,
Của không người kém ai thì lo toan?
Dẫu có kẻ trung-can nghĩa-đảm
Tài giỏi ba vạn tám nghìn tư
Đê kia đã vỡ khôn cừ!
Tay không chống giữ nhà hư cũng chồn.
Huống những lũ gà bòn mối đục,
Huống những phường rắn độc beo tham,
Quen thân trâu ách ngựa dàm
Thôi thôi vận mạnh Việt-Nam còn gì?

Mũ dấu-đỏ sập sì cạnh đó,
Cờ mặt-trời ngấp ngó non đông,
Sợ khi bất-chắc sinh lòng,
Ngoại-giao thất bại, nội-hồng dễ sinh.
Đất Đông-Á thình lình sấm động,
Bể Thái-Bình nổi sóng đùng đùng,
Nước mình giữa ngọn sung phong,
Chiến-trường địa-điểm sợ không khỏi nào.
Thịt trốc thớt lưỡi dao rình xẻo.
Cá bên thành không khéo chết oan?
Dù không sớm liệu xa toan,
Búa rìu kề cổ dễ toàn được vay!
Cơn nguy cấp kêu thầy lại gỡ,
Chờ tới nơi đã vỡ xương rồi.
Cách vời dầu chẳng đoái duôi,
Dắt nhau cùng xuống giếng khơi chắc là!

Thân quốc quốc trông ra bốn bể,
Thấy sự cơ xiết kể lo âu.
Sốt gan nên phải kêu gào,
Một câu rỏ giọt máu đào một câu!
Mong chính-phủ mau mau cải cách.
Thực-hành ngay chính-sách đề huề.
Dần đem quyền nước trao về.
Chung phần gánh vác, liệu bề sửa sang.
Cùng chăm-chước mưu đường chính-trị.
Cùng thảo luân tìm kế vận trù.
Mở đường bình-đẳng, tự-do.
Lợi cho đồng lợi, quyền cho bình quyền,

Trong, mưu cách bảo yên dân thứ.
Ngoài, tìm phương chống giữ biên cương,
Mà ta lên nghiệp phú cường.
Mà ta sớm được chủ-chương nước nhà,
Mà ta được thoát ra cơ ách,
Mà ta ra đối địch với đời.
Ơn này kể biết mấy mươi.
Cái công bảo-hộ dễ đời nào quên?

Hay gì lối cường quyền áp-chế,
Hay gì đường thị thế đè chàn,
Hay gì chính-sách âm-toan.
Ngoài nhân-nghĩa giả, trong bòn rút sâu?
Loài người lấy ngựa trâu đối đãi.
Mạng người coi cóc nhái rẻ khinh.
Thú cùng ắt cũng giương nanh,
Con cua lúc túng cũng ganh giơ càng.
Dòng đế-chế rầy đang mòn mỏi,
Nghĩa cường-quyền thế-giới nào dong?
Dù tham sâm lược làm lòng.
Luống gây thêm sự nát nong mẻ rìu,
Đại-pháp trước xướng điều nhân-đạo,
Quyết liệu cơ mở tháo cho mình.
Ai ơi! Chúng khẩu đồng thanh.
Xướng câu vạn-tuế mà nghênh quốc-quyền!