Trang:Au hoc khai mong.pdf/27

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được phê chuẩn.
— 8 —

Hiếu trị chương đệ bát.

1. Tử viết: Tích giả minh vương, chi dĩ hiếu trị thiên hạ dã, bất cảm di tiểu quốc chi thần, nhi huống ư công hầu bá tử nam hồ? Cố đắc vạn quốc chi hoan tâm, dĩ sự kỳ tiên vương. Trị quốc giả bất cảm võ ư quan quả, nhi huống ư sĩ dân hồ? Cố đắc bá tánh chi hoan tâm, dĩ sự kỳ tiên quân. Trị gia giả bất cảm thất ư thần thiếp, nhi huống ư thê tử hồ? Cố đắc nhơn chi hoan tâm, dĩ sự kỳ thân. Phù nhiên, cố sanh, tắc thân an chi; tế, tắc quỉ hưỡng chi. Thị dĩ thiên hạ hòa bình, tai hại bất sinh, họa loạn bất tác. Cố minh vương chi dĩ hiếu trị thiên hạ dã, như thử. — 2. Thi vân: Hữu giác đức hạnh, tứ quốc thuận chi.[1]

Thánh trị chương đệ cữu.

1. Tăng tử viết: Cảm vấn thánh nhơn chi đức, vô dĩ gia ư hiếu hồ? — 2. Tử viết: Thiên địa chi tánh, nhơn vi quí; nhơn chi hạnh, mạc đại ư hiếu. Hiếu mạc đại ư nghiêm phụ; nghiêm phụ mạc đại ư phối Thiên; tắc Châu công kỳ nhơn dã.[2] Tích giả, Châu công giao tự Hậu tắc dĩ phối Thiên, tông tự Văn vương ư


Bài lấy lòng thảo trị dân, thứ tám.

1. (Đức phu) tử rằng: Xưa kia (các vì) vua sáng, người dùng (lòng) thảo (mà) trị (người trong) thiên hạ vậy, chẳng dám (bỏ) sót (người làm) tôi ở nước nhỏ, mà huống chi là tới (những bực) công, hầu, bá, tử, nam; cho nên được muôn nước người ta vui lòng, mà thờ (các vì) vua trước mình. Kẻ trị nước chẳng dám dễ dui tới người góa vợ, kẻ góa chồng, mà huống chi tới kẻ sĩ (cùng) người dân; cho nên được trăm họ người ta vui lòng, mà thờ các vua chúa mình. Kẻ trị nhà chẳng dám mất (lòng) tới tôi (tớ cùng người) hầu, mà huống chi tới vợ con; cho nên được người ta họ vui lòng, mà thờ người thân mình. Và vậy, cho nên (khi còn) sống thì cha mẹ yên (về sự) sống; (khi mất có) tế thì hồn hưởng (của tế) đó. Ấy nên trong thiên hạ (được) hòa (được) bình, tai hại chẳng (có) sanh, họa loạn chẳng (có) dấy; cho nên các vì minh vương người dùng lòng thảo mà trị người thiên hạ vậy dường ấy. — 2. Kinh thi rằng: Có đức hạnh lớn (thì các) nước (trong) bốn (phương trời) thuận (theo) đó.

Bài đứng thánh nhơn trị dân, thứ chín.

1. (Thầy) Tăng tử rằng: Dám hỏi đức (giáo đứng) thánh nhơn, không lấy (chi mà) thêm nơi (lòng) thảo sao? — 2. (Đức phu) tử rằng: (Trong) tánh (mạng) trời đất (sanh ra, thì con) người là quí; (trong đức) hạnh người ta, thì chẳng chi lớn hơn lòng thảo. Lòng thảo chẳng chi lớn hơn là kính cha, kính cha chẳng chi lớn hơn là sánh với Trời; thời (ông) Châu công (phải đứng làm) người vậy. Xưa kia, (ông) Châu công (lập Nam) giao, thờ (vua) Hậu tắc mà sánh (với ông) Trời, (lập nhà) tông (miếu) thờ (vua) Văn vương nơi


  1. Trịnh thị viết: Thủ nghĩa: Thiên tử hữu đại đức hạnh, tắc tứ phương chi quấc, thuận nhi hành chi.
  2. Trịnh huyền viết: Phụ gỉa, tử chi thiên dả, sát kỉ chi thiên, dử cọng đái thiên, phi hiếu tử dả.