mới thừa phong phóng hỏa. Sông Xích-bích đùng đùng trận lửa, Tào-a-man liệt đởm tồi can. Lòng trời dự kể khôn ngoan.
Tật phong hàn tuế phân kiên hủy, thời lảnh hồng mao đẳng trọng khinh; khá khen người chống vững cô thành, vì ân nặng phải lấy mình làm nhẹ. Cơn sảng sốt thong dong tùy mặt thế, song cũng liều tiết đá với gan vàng, miễu Tam-trung nghi ngút khói nhang, dấu thơm để làm gương thiên cổ. Nhơn sanh tự cổ thùy vô tữ, lưu đắc đơn tâm chiếu hạn thanh. Mượn lời xưa mà khuyên kẻ trung trinh, mầng thế đạo đã xây nên khí tiết; cuộc trời đất mở nền Nam-việt, đem tánh danh mà sánh với sắt son; nam nhi cuộc đã vuông tròn.
Trương-lưu-hầu là người Hàn công tử, nối năm đời chung đỉnh nước Hàn; tới chưng khi quấc bộ gian nan, niềm ưu ái chăm bề báo phục. Cơn xông đụt biết mấy lần gai gốc, tới Trần-lưu xảy gặp Lưu quân ; năm năm ba tấc lưỡi kinh luân, màn thao lược vì Tần khổn Hạn. Ơn Hán nợ Hàn trả vẹn, túi vương hầu treo gởi gánh Huỳnh-công; một mình lui tới thung dung.
Triệu-tử-luông nhứt thân đô thị đởm, trận Đương-dương thân bị trùng vi: thả hành thả chiến mã như phi, bảo Á-đẩu thủ trì tam xích kiếm. Tứ diện Tào binh thùy dữ Hán, trận tiền hà xứ thị ngô quân: trước Hạ-hầu-đôn sau Hạ-hầu-ân, một mình xông tên đụt pháo bấy nhiều lần, bảy mươi ba trận giao phong chẳng vướng. Tào lừng lẩy năm mươi bốn tướng, lung lăng về một mũi nhi đồng, cờ Thường-sơn ông Triệu-tử-luông, nhứt nhơn địch vạn, quân trung tướng tài; làm trai đã đáng nên trai.
Triều-lê-quí có bà liệt tiết, mười chín thu giữ một niềm tây, đam tàn dung mà nương chốn am mây, đạo thần tử tình trong phu phụ. Vạn cổ gi luân chiêu vỏ trụ, nhứt tâm trung nghĩa đối quân vương: lòng khăng khăng trải tấm thiết cang, chén tân khổ ngọt ngon mùi chánh khí; đã nên đứng trung thần bất nhị, lại khác bề liệt nữ bất canh! vững bền hai chữ trung trinh.