Trang:Ca tru the cach.pdf/9

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 9 —

đâu nghe phưởng phất dạ trời, dần dà cội bích ngàn nhơn, vừng ô nọ nổi linh đinh mặt nước; vịnh mấy tiếng cội ngành chìu lăng líu, chực đôi nàng cữa động đứng song song, chìu dương liễu thiết tha, đón rước nỗi mầng mầng, thẹn thẹn; dạng phù dung tươi tốt, mầng rỡ bề lạ lạ, quen quen. Ba sanh sao khéo hẹn hò, một phút xảy nên lăng líu.


PHÚ VƯƠNG LĂNG.

Trời nam vặc vặc, nguyệt dải làu làu, bể đông nam kình ngạc khấu đầu, rừng tây bắc sài lang giấu vút. Nền vương bá vững an rường cột, nhà thôn dân chặt đóng chốt then. Sĩ chăm chăm kinh thánh truyện hiền, nông cạy cạy cày mây cuốc gió. Nhớ xưa tích cũ, Hớn Vương-lăng người đất Bái-trung, gặp phải thì Hán-Sở tranh hùng, Lăng chí dốc một lòng thờ Hán.


BÁ GI THÚC TỀ THƠ.

Danh chẳng tham, mà lợi chẳng mê,
Ấy gan hay sắt hỡi Gi, Tề.
Gặp xe vua Võ tay cầm lại.
Thấy thóc nhà Châu mặt ngảnh đi.
Cô-trước hồn về sương mịt mịt,
Thú-dương danh để đá tri tri.
Cầu nhơn chi đắc nhơn mà chớ,
Chẳng oán ai ai lại oán chi.


HÁT ĐẠI THẠCH.

Ngọc từ nghe tiếng vấn vi, thốt thôi lại nói bàn mi sự tình: hội nầy lừng lẩy dưới trên, vui nầy gặp hội thiên duyên dẫu lòng; ngọn cờ đảnh núi xa trông, no nao lan quế hiệp cùng trước mai; trách thay ô thước nỡ hoài, cớ chi sao bổng lạc lài chốn tiên.


HÁT HÁM CÁCH.

Tiếc xuân ngảnh lại trông xuân, thương ôi bóng đã vân vân xế chiều; linh đinh duyện nợ phận bèo, trốn làm sao khỏi nước