người, ngựa khó đi. Duy có dùng thuyền độc mộc nhỏ, lấy sào chống đi ở trên đám cỏ nước là có thể tới được. Thế nhưng không phải kẻ quen thuộc đường lối, thì mê-lẫn không còn biết đâu vào đâu. Lỡ ngã xuống nước thì bị rắn. rết cắn chết, hoặc bị thương. Quang-Phục hiểu được mạch lạc, đem hơn hai vạn người, đóng ở nền đất trong chầm. Ban ngày thì tắt dứt khói, lửa cùng dấu vết loài người. Ban đêm thì dùng thuyền độc-mộc, đem quân ra đánh trại Bá-Tiên, giết chết và bắt sống được rất nhiều. Lại dùng số lương-thực cướp được, tính kế chống-chọi lâu. Bá-Tiên theo chân đuổi đánh, vẫn không đánh nổi, Người trong nước gọi Triệu là vua Dạ-Trạch.[1].
Đời truyền về thời Hùng-Vương, con gái nhà vua là mệ-nàng Tiên-Dung ra chơi cửa biển. Thuyền về đến bãi sông làng Chử-gia, nàng đi bộ trên bãi, gặp Chử-Đồng Tử (đứa trẻ họ Chử) trần-truồng nấp trước trong bụi sậy. Tự cho là nguyệt-lão đưa duyên, cùng nhau kết làm vợ, chồng. Sợ tội ở lánh trên bờ sông, ở đâu thành đô-hội đấy. Nhà-vua đem quân ra đánh. Đồng-Tử, Tiên-Dung sợ-hãi đợi tội. Bỗng-rưng nửa đêm, nổi cơn mưa. gió lớn, lay chuyển nhà cửa của ông bà ở, tự nhổ lên
- ▲ Dạ trạch, hiện nay ở huyện Đông An phủ Khoái châu. Sách Nhất thống chí đời Thanh chép rằng: « Ở huyện Đông-Kết phủ Kiến-Xương. Đời Lương, Trần bá-Tiên đánh Lý-Bý. Bý trốn vào trong chầm. Đêm mới ra cướp phá, nên gọi là Dạ trạch (chầm đêm) » Đông Kết là tên xưa của Đông An.