chẳng ngăn cấm được. Nghĩ vậy mới mượn người mụ mối đến hỏi Xuân-Hương,
Xuân-Hương tiếp mụ mối đến nói truyện, kể: « Bà hậu là người quê mùa mộc mạc, tính nết dẽ dàng, vì quan hậu có ý muốn kén người thứ-thất, mà đã biết cô là tài, hạnh kiêm toàn, nên mới mượn tôi đến nói truyện, tôi tưởng chả còn đâu hơn? »
Xuân-Hương nghe nói biết truyện như vậy, nhưng ý vẫn còn ngần ngại. Mụ mối giở ra về. Xuân-Hương một mình giằn giọc nghĩ ngợi thau canh, vì rằng ông ấy thì mình đã biết, bấy lâu ý hợp tâm đầu, giá có nên ra, thực là đẹp duyên phải lứa. Nhưng chỉ e về một nỗi bà ấy ở nhà, vậy nên không dám quyết tình đính ước. Nay bà hậu cũng cho người lại hỏi mình, ý hẳn quan hậu đã khuôn sếp êm rồi, mình không biết nghĩ có nên chăng? Xuân-Hương ngồi nghĩ bâng khuâng, mượn chén ngâm thơ, vậy có nên bài tuyệt diệu. Thơ rằng:
Canh khuya văng vẳng trống canh giồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vừng giăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình xan xẻ tí con con.