Trang:Hung Dao Vuong.pdf/121

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 120 —

Đầu còn thì dạ vẫn bền,
Da này sát-Đát chữ in chưa lòa.
Mũi gậy rút, rõ ta vô nhị,
Tờ hịch treo, khuyên kẻ đồng cừu.
Tức gan với đứa thiên-kiêu,
Thì đem dạ sắt mà liều tay lang.
Khi chước đặt thượng-giang phóng phiệt,
Khi kế bày binh trượng đại-doanh.
Có khi dử giặc lui binh,
Giồng chông đáy nước để rình thuyền qua.
Chí địch khái, bòng tà kéo lại,
Người tiêm cừu, tay trái đều day.
Mấy phen rồng chọi tuyết bay,
Người đề cờ nghĩa, người bày mưu trung.
Người đan kị, nhảy xông cường trận,
Người chích thuyền, chèo sấn cuồng lan.
Ấy ai đánh vỡ thuyền lương?
Ấy ai Hàm-tử, Chương-dương đua tài?
Ngựa đá cũng bồ hôi chiến trận,
Nước triều cũng nổi giận bá đào.
Gió mây theo ngọn cờ đào,
Thần, nhân hiệp tán giặc nào chẳng tan?
Ngươi Hoan nọ xa ngàn dặm trút,
Chàng Đô kia liều một thân tàn.
Còn như Ô-Mã, Sầm-Đoàn,
Bá-Linh, Cơ-Ngọc vào đoàn tù dây.
Lặng gió ải cỏ cây lại tốt,
Đặt âu vàng non nước đều yên.
Ngẫm cơ liệu địch sao thiêng,
Ngày xưa hai chữ « tặc nhàn » không ngoa.
Quân ta mạnh chẳng qua nhẽ thẳng,
Việc nước xong bởi gắng lòng trinh.
Hiến phù dưới khuyết cáo thành,
Đền ân sơn hải chút tình quyên ai.