Trang:Hung Dao Vuong.pdf/49

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 48 —

Từ xưa nghĩa-sĩ, trung-thần.
Đã lòng vì nước biết thân là gì!
Nếu cứ giữ nữ-nhi thường thái,
Chỉ khu khu biết cái thân mình.
Ở đời một cõi phù sinh,
Còn đâu là tiếng hiển vinh đến rầy?
Thôi chẳng kể việc ngày tiền-cổ,
Hãy xem ngay việc rõ Tống, Nguyên:
Kìa như Nguyễn-Lập, Vương-Kiên,
Điếu-ngư thành ấy quân quyền được bao?
Đương trăm vạn ào ào quân giặc,
Giữ cho dân nay được hàm ân.
Ngột-Lương một chức võ-thần,
Tu-Tư tì-tướng xuất thân đó mà!
Đường muôn dặm xông pha chướng dịch,
Trong vài tuần quét sạch Vân-nam.
Lập công tuyết-vực đã cam,
Khiến cho quân trưởng tiếng thơm để đời.
Nay gặp phải trong thời nhiễu loạn,
Ta cùng ngươi đương đoạn gian truân.
Nghĩ sao sánh với cổ-nhân,
Cũng nên hết bụng trung quân mới là!
Kìa thử ngắm sự nhà Mông-cổ,
Sứ vãng lai nhặng bộ xôn xao.
Cú diều uốn lưỡi thấp cao,
Bẻ bai triều bệ xiết bao nhục nhằn!
Tuồng dê chó cậy rằng đắc thế,
Chốn triều-đường ngạo nghễ vương công.
Cậy tay Tất-Liết anh hùng,
Bạc vàng biết mấy cho cùng dạ tham?
Lại ỷ thế Vân-nam hống hách,
Định sang ta vét sạch của ta;
Thịt đâu hoài thịt ném ra,
Ném cho hổ đói dễ đà khỏi lo?
Nghĩ đến sự rầy vò xấu hổ,
Ngày quên ăn, đêm ngủ không an.
Vỗ mình thổn thức canh tàn,
Chạnh đau khúc dạ, chảy dàn giọt châu.
Ăn gan ấy mới hầu thỏa dạ,
Uống huyết kia mới hả giận này.