Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
ngày phò thủ tự,[1] đêm nồi tâm hương.
Cho hay giọt nước nhành dương,[2]
lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sồng từ trở màu thuyền,[3]
sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.
Quan phòng thẹn mặt lưới mau,[4]
nói cười trước mặt, rơi châu vắng người.
Các kinh, viện sách đôi nơi,
trong gang thước lại bỉ mười quan sơn.[5]
Những là ngậm thở ngùi than,
Tiểu-thơ phải buổi vấn an về nhà.
Hoạn-thơ giã đò về thăm mẹ, mà trá núp rình coi; mới thấy Thúc-Sanh vô chùa nói chuyện với Túy-Kiều. Vợ hỏi đi đâu vậy, thì nói đi coi người viết kinh, chữ tốt lắm; hai vợ chồng đem nhau về, để con đầy tớ ở lại đó.
Thừa cơ Sanh mới lén ra,
xăm-xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt-sùi kể nỗi đoạn tràng,
giọt châu tầm-tả[6] ướt tràng áo xanh.
Rằng: cam chịu bạc với tình,
chủ đông[7] để tội một mình cho hoa.
- ▲ Thủ tự. — Chép kinh. — Nồi tâm hương. — Nhang đèn.
- ▲ Nhành dương. — Dương chi sái thủy. — Nước cam lồ, nước phép của bà Quan-âm.
- ▲ Nâu sồng. — Màu nu xuống sắc sồng. — Màu thuyền. — Màu về chùa chuyền.
- ▲ — Đã qua hai tháng, cửa đóng chắt, lưới dày: cấm cung ở tại chùa.
- ▲ — Tuy ở nơi Quan-âm các, là gần, mà cách xa nhau không tới lui với nhau được, như đường xa quan sơn vậy.
- ▲ Tầm-ta. — Dầm dề.
- ▲ Chủ đông. — Phận đờn ông