Bước tới nội dung

Trang:Kim Van Kieu truyen Truong Vinh Ky.pdf/38

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 41 —

Tâng-bầng sắm-sửa áo xiêm,
bèn dâng một lễ xa đem tất thành.
Nhà lan thanh-vắng một mình,
gẫm cơ hội ngộ đã đành hôm-nay.
Thì trân[1] thức-thức sẵn bày,
gót sen thoát-thoát dạo ngay mái tường.
Cách hoa sẽ dắng tiếng vàng,
đưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Trách lòng hơ-hửng bấy lòng!
lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
Nàng rằng gió bắt mưa cầm,
đã cam tệ với tri-âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm-nay,
lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.
Lần theo núi giả[2] đi vòng,
cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Sấn tay mở cửa động đào,[3]
rẽ mây trông rõ lối vào thiên-thai.[4]
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
bên lời vạn phước[5] bên lời hàn huyên.[6]
Sánh vai về chốn thơ hiên,
ngâm lời phong nguyệt,[7] nặng nguyền non sông[8].


  1. Thì trân. — Đồ ngon theo mùa.
  2. — Non hộ đất.
  3. Động đào. — Đào nguyên động (Động-tiên).
  4. Thiên-thai. — Núi Tiên ở, Lưu-thần, Nguyễn triệu đi hái thuốc mà gặp Tiên.
  5. Lời vạn phước. — Lời con gái chào chúc.
  6. Hàn huyên. — Ấm lạnh.
  7. Phong nguyệt. — Gió trăng. — Hoa tình.
  8. — Thề nguyền, chỉ núi sông mà thề.