— 82 —
Thuyền quyên ví biết anh-hùng,
ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi.
Song thưa đã khép cánh ngoài,
tai còn đồng vọng[1] mấy lời sắt đinh.[2]
Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
cám lòng chua-xót tạ tình bơ-vơ.
Những là lần-lữa nắng mưa,
kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?
Đánh liều nhắn một đôi lời,
nhờ tay tế độ[3] vớt người trầm luân.
Mảnh tiên[4] kể hết xa gần,
nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc-loài,
Tan sương vừa rạng ngày mai,
cánh hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
Trời tây lửng-đửng bóng vàng,[5]
phục thơ đã thấy tin chàng tới nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
rành-rành: tích việt[6] có hai chữ đề.
Lấy trong ý-tứ mà suy,
ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thôi thoát về rừng,[7]
đoá trà-mi đã ngậm trăng nửa mành.[8]
- ▲ Đồng vọng. — Nghe vẳng vẳng; lóng tai mà nghe.
- ▲ Lời sắt đinh. — Lời nói chắc; chắc như đinh sắt đóng vào cây.
- ▲ Tế độ. — Chở bằng đò. — Cứu giúp.
- ▲ Mảnh tiên. — Tấm giấy.
- ▲ Mặt trời xế chiều.
- ▲ Tích việt. — Xẻ hai chữ ra mà cắt nghĩa là đến ngày hai mươi mốt, giờ tuất thì trốn.
- ▲ Tối rồi, chim bay về núi
- ▲ Trăng đà mọc, mà trăng ngày hai mươi mốt còn nữa cái.